• MÓN ĂN CHAY DINH DƯỠNG
  • HỎI ĐÁP VỀ VẤN ĐỀ ĂN CHAY
  • NHỮNG CÂU CHUYỆN LUÂN HỒI ĐẦY BÍ ẨN
  • Người theo dõi

    Thứ Tư, 11 tháng 11, 2015

    Tam Tào Phổ Độ (Thế nào gọi là Tam Tào Phổ Độ ? )


    Tam Tào Phổ Độ





    Bạch Dương Kì là bắt đầu từ năm 1930, cho đến về sau này tổng cộng 10,800 năm, do Di Lặc Tổ Sư chưởng quản thiên bàn, Sư Tôn, Sư Mẫu chưởng quản đạo bàn. Hiện nay chúng ta chính là ở vào thời kì Bạch Dương; thế giới hiện nay lòng người đã hư đến cực điểm; bình thường xem truyền hình, đọc báo chúng ta đều có thể nhìn thấy rất nhiều những tin tức phạm tội, có những vụ giết hại cha mẹ thân sinh của chính mình, cũng có những vụ giết hại con ruột của chính mình, lại còn có giết người phân thây, sau đó ăn thịt người, quả thật là khiến người nghe rồi vô cùng kinh hãi, khiến người ta sởn cả gai ốc. Do đó, thời kì Bạch Dương này giáng xuống 9 x 9 = 81 kiếp nạn, gấp nhiều lần so với thời kì Thanh Dương, Hồng Dương. Cuối cùng chịu phong kiếp liễu đạo, gọi là Diên Khang Phong kiếp, còn gọi là Cang Phong kiếp. Vào thời kì này tam tai bát nạn đều cùng hiện, sau này sẽ xuất hiện 7 x 7 = 49 ngày Cang Phong quét trần thế, ngày đêm khó phân, tai nạn lớn mang tính hủy diệt thế giới, đấy cũng là “ ngày tận thế ” mà người đời và thiên chúa giáo đã nói đến. Thượng thiên Lão Mẫu thân nơi Dao Trì, thương yêu các con trong lòng nôn nóng, chẳng nỡ nhìn thấy các Hoàng Thai Nguyên Tử gặp phải đại kiếp này, do đó bèn hạ lệnh đại khai phổ độ, do Di Lặc Tổ Sư chưởng quản thiên bàn, Sư Tôn Sư Mẫu của chúng ta quản chưởng đạo bàn. Nguyên linh của Tiên Thiên Lão Mẫu tổng cộng gồm có 96 ức giáng nơi thế gian. Thanh Dương Kì, Hồng Dương Kì mỗi kì đã độ 2 ức Nguyên Nhơn trở về Lí Thiên, vẫn còn lại 92 ức Nguyên Nhơn. Tam Kì Mạt Kiếp lần này phải cứu về 92 ức Nguyên Nhơn còn sót lại, vì điều này mà Hoàng Mẫu đã hạ lệnh phổ độ Tam Tào đại thâu viên. Quá khứ Thanh Dương Kì, Hồng Dương Kì việc thâu viên do Nhiên Đăng Cổ Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật đã bàn lí là mang tính khu vực; hiện nay thời kì Bạch Dương việc thâu viên do Di Lặc Tổ Sư bàn lí là mang tính toàn cầu. Phàm là những đệ tử mà thời Thanh Dương Kì, Hồng Dương Kì đức Nhiên Đăng Cổ Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật chưa độ trở về thì lần này Di Lặc Tổ Sư đều phải độ họ trở về, đấy chính là nguyên nhân của Tam Tào Phổ Độ. Thế nhưng hiện nay vào lúc này lòng người lìa đạo đã quá xa rồi, mọi người ở thế gian sanh sanh tử tử, tham luyến những cảnh giả của cõi hồng trần, đã mê muội mất lương tâm bổn tánh, lòng người hiểm trá đến cực điểm, muốn cứu độ đông đảo các Nguyên Nhơn quả thật là chẳng dễ dàng. Ơn trên từ bi, phái 4 ức tiên phật đã thành đạo trong hai thời kì Thanh Dương và Hồng Dương toàn bộ thảy đều đảo trang hạ phàm, như trong đạo trường của chúng ta sẽ có rất nhiều những Tiền Hiền là những vị đã thành đạo trong hai thời kì Thanh Dương, Hồng Dương quay trở về trời rồi lại đảo trang hạ phàm để trợ đạo đấy; như vậy 92 ức Nguyên Thai Phật Tử của thời kì Bạch Dương, lại cộng thêm 4 ức này, tổng cộng là 96 ức Nguyên Thai Phật Tử sẽ thành đạo trở về trời. Tiệc mừng công sẽ là Long Hoa Đại Hội, do Di Lặc Tổ Sư vì những người tu đạo mà dựa công định quả.

    ?Thế nào gọi là Tam Tào Phổ Độ 

    Tam Tào chính là Thiên Tào, Nhân Tào, Địa Tào.
    Cái thế giới mà con người chúng ta đang ở có hình có tướng gọi là Tượng Thiên, cũng chính là Nhân Tào. Trước khi cầu đạo, tên họ của mỗi người chúng ta đều ở trong quyển sổ sinh tử của Diêm Quân địa phủ. Địa Phủ cũng chính là Địa Tào. Chúng ta trăm tuổi sau khi qua đời, chúng ta đều phải đến chỗ của Diêm Vương nơi địa phủ để báo đến, tiếp nhận sự thẩm phán. Trải qua sự thẩm phán của Diêm Vương nơi địa phủ mà sẽ đầu thai chuyển kiếp ở trong sáu nẻo luân hồi. Nếu như công lớn nhiều hơn tội thì sẽ đến cõi Khí Thiên, cũng chính là Thiên Tào để làm Thần Tiên. Hiện nay những vị mà bình thường trong miếu hay cúng đều là Khí Thiên Tiên. Khí Thiên Tiên hưởng tận hết 300 hoặc 500 năm khói lửa nhân gian vẫn còn phải quay trở lại trên đời để làm người; hễ một khi họ xuống làm người, họ cũng chẳng biết bản thân mình sau này sẽ luân hồi đến đâu; trong biển khổ của sự luân hồi này chẳng có ai có thể nắm bắt được vị lai của bản thân mình. Con người đời đời kiếp kiếp chính là luân hồi ở trong Tam Tào này, do đó nói là biển khổ của luân hồi. Ở bên ngoài Tam Tào này là cõi Vô Cực Lí Thiên, là cố hương phật quốc xa xưa của nhân loại chúng ta, nơi đó chẳng có đau khổ, chẳng có sanh lão bệnh tử, là thế giới cực lạc. Lão Mẫu của chúng ta, Tiên Phật Bồ Tát chính là ở nơi đó.

    Tam Tào Phổ Độ chính là nói ơn trên từ bi uốn đem những Thần, Nhân, Quỷ của Tam Tào này đều độ về đến Vô Cực Lí Thiên.


    Cái gì gọi là độ Hà Hán Tinh Đẩu Chư Tiên Khí Thiên ?

    Hà Hán Tinh Đẩu làm thế nào độ đây ? Những ngôi sao trên trời chẳng phải chính là sao đó ư ? Làm gì có linh tánh có thể độ ? Thật ra các tinh đẩu đầy khắp trời mà nhục nhãn chúng ta có thể thấy đều có những vị thần ti chức riêng biệt của chúng, lại còn có gió, sương, mưa, móc, lôi, điện, những hiện tượng đại tự nhiên này cũng đều có các vị thần ti chức ( ví dụ như : thần gió, lôi công …), ngoài ra cửa có thần cửa; nhà nhà đều có thần táo; thổ địa có thần thổ địa; núi có thần núi, lại còn có những thần minh cung phụng trong chùa miếu linh nghiệm vô song, thật ra cũng đều có những vị thần Ti chức.

    Vậy thì những Hà Hán Tinh Đẩu này, những Chư Tiên Khí Thiên là từ đâu mà đến đây ? Giống như quá khứ có rất nhiều những người tu hành, họ bỏ nhà xả nghiệp, khổ tu khổ luyện trong thâm sơn cổ động, thế nhưng lúc bấy giờ chưa có đại khai phổ độ, họ chưa có cơ duyên đắc thụ một chỉ điểm của Minh Sư; lại còn có những trung thần, hiếu tử, liệt nữ, tiết phụ và những người đã hành đại công đại thiện của thế gian, họ sau trăm tuổi qua đời rồi, những khí tiết, công thiện của họ tại nhân gian sẽ không bị chôn vùi mai một, họ bèn sẽ trở thành Khí Thiên Tiên hoặc những vị Thần trong cõi địa phủ, có thể hưởng thụ phước báo nhân thiên, tiêu dao nơi cõi Khí Thiên, nhận hương hỏa nhân gian tế tự. Họ chính là những Hà Hán Tinh Đẩu, Chư Tiên cõi Khí Thiên mà ở đây chúng ta nói đến; bởi vì họ chưa có đắc được đại đạo chơn truyền, khi phước báo của họ hưởng tận hết thì vẫn là phải rơi trở lại vào sự luân hồi. Do đó các vị Tiên cõi khí thiên đều rất nóng lòng, cũng muốn đắc đạo quay trở về lại Lí Thiên, thoát lìa nỗi khổ của luân hồi. Hiện nay ơn trên từ bi phổ độ Tam Tào, để cho các Hà Hán Tinh Đẩu, Chư Tiên Khí Thiên cũng có thể đắc đạo, trực tiếp từ Khí Thiên siêu nhập Lí Thiên, thoát lìa luân hồi. Một trong những phương pháp mà Khí Thiên Tiên cầu đạo là có thể chuyển kiếp làm người, đầu thai đến những gia đình có phật đường, thế nhưng loại phương pháp này đối với Khí Thiên Tiên mà nói thì là rất mạo hiểm, bởi vì nếu như chuyển kiếp, chuyển một cái ở trong bào thai mẹ, ra đời thì bèn hồ đồ rồi, chẳng biết sự bảo quý của đạo, do đủ thứ các nguyên nhân mà có thể bèn sẽ không cầu đạo rồi. Bởi thế mà các vị Tiên Khí Thiên đều muốn lập tức cầu đạo ngay lúc ấy.Thường có các vị Tiên Khí Thiên theo Tiên Phật của cõi Lí Thiên đến Đàn để hiển hóa trợ đạo, thậm chí có đến núi Nam Bình Sơn quỳ cầu xin thầy Tế Công của chúng ta từ bi. Sau khi được sự ân chuẩn thì lại tìm kiếm người có duyên với mình trong kiếp trước để họ đảm nhiệm Dẫn, Bảo Sư, hiến thay cho mình công đức phí 5000 đài tệ trở lên, và chỉ định vị Điểm Truyền Sư đại đức có duyên với mình để độ hóa. Từ đây có thể biết rằng các vị Tiên cõi Khí Thiên muốn cầu đạo cần phải có đủ thứ các điều kiện và nhân duyên, do đó mà những vị Tiên Khí Thiên có duyên đắc đạo là vô cùng không dễ dàng.

    Ở đây xin nếu ra một ví dụ về việc Khí Thiên Tiên cầu đạo :

    Mã Tổ Lâm Thiện Nương nhiệm thứ 13 ở Đông Cảng là một vị Tiên Khí Thiên. Cô ấy lúc còn sống là người Tô Châu. Lúc cô chưa chào đời thì đã bị cha chỉ bụng thành thân, đính hôn ước với nhà họ Trần ( Tục cưới gả thời xưa. Hai gia đình có bà có thai, chỉ bụng hứa gả con trai hay gái cho nhau ). Vị Hôn Phu của cô ( chính là Dẫn Sư của Lâm Thiện Nương lúc cầu đạo sau này ) , tên gọi là Trần Lực Miễn, không may lúc năm mà Lâm Thiện Nương 17 tuổi thì anh ấy đã qua đời. Lâm Thiện Nương không chịu cải giá, bèn thủ khiết ( giữ gìn sự trong sạch trinh tiết ) ở nhà họ Trần, cùng sống chung với mẹ chồng. Sau khi trải qua 3 năm, trong nhà gặp phải bọn giặc cướp, mẹ chồng đã chết, bọn giặc cướp cướp mất cô mang đi, bức cô thành hôn; cô thà chết chớ chẳng chịu nghe theo, do đó bèn nhảy sông tự sát. Linh tánh của cô theo thân thể cô trôi dạt đến biển đông, vừa đúng lúc bị một tiểu cô nương nhìn thấy ( chính là cô Bảo Sư họ Kim lúc cầu đạo ) , bèn đem cô đi chôn cất. Linh tánh của Lâm Thiện Nương từ đấy mà phiêu bạt trên biển, nhìn thấy những người dân đánh cá gặp nạn thì cứu giúp, tròn đủ 9 năm, do vậy Ngọc Hoàng Thượng Đế phong cô làm Mã Tổ thứ 13 nhận sự thờ phụng tôn kính của người đời. Sau khi mãn kì hạn thì đầu thai đến gia đình nhà giàu để hưởng phước. Cô làm Mã Tổ đã 250 năm, khí số đã tận, nhưng cô không nguyện đầu thai đến gia đình nhà giàu. Cô bảo rằng người giàu có dễ dàng tạo tội, mê muội mất bổn tánh; thiên thời khẩn cấp, kiếp lớn liên tiếp xảy đến, vũ trụ sắp diệt rồi, toàn thế giới đều phải gặp phải kiếp số, do vậy mà cô chẳng chịu đi đầu thai, nóng lòng muốn cầu đạo.Cô đến núi Nam Bình Sơn cầu xin thầy Tế Công của chúng ta. Lúc đầu thầy chẳng nhận lời, cô bèn quỳ trước thầy 7 ngày 7 đêm, rốt cuộc đã làm cảm động thầyThầy niệm tình cô đã vài kiếp chẳng làm chuyện ác, bèn nhận lời để cho cô cầu đạo, để cô đi tìm người có duyên hiện thân. Cô nói với thầy rằng, người có duyên với cô chỉ có vị Vị Hôn Phu tiền kiếp của cô, kiếp này là Lâm Cúc, là mẹ của cô Tam Tài họ Dương, chẳng biết làm thế nào đi tìm cô Lâm Cúc ấy đây ? Thầy nói : “ Cô ấy có một đứa con gái, thầy sẽ xoay chuyển cho cô ấy lên Đông Cảng, đến lúc đó con lại hiện thân vậy, sau khi cầu đạo rồi thì phải giúp đỡ trợ đạo ” , bèn như thế được sự an bài sắp đặt của thầy Tế Công,âm lịch ngày 12 tháng 10 năm 1977 tại Đông Cảng có một phật đường sắp được thiết lập, đứa con gái làm Tam Tài của cô Lâm Cúc muốn đi theo để ngắm nhìn cảnh biển, do vậy mà Mã Tổ thứ 13 bèn mượn thân thể của cô Tam Tài họ Dương này để hiện thân khẩn xin cầu đạo. Năm ngày sau, Hàn Lão Tiền Nhân đặc biệt về phương nam, Mã Tổ thứ 13 lại mượn vào khiếu của Tam Tài hướng về Hàn Lão Tiền Nhân mà khẩn cầu rằng : “ Tôi muốn cầu đạo ” . Lão Tiền Nhân hỏi : “ cô đã được sự cho phép của ai ? ” . Cô nói : “ Tôi đã được sự cho phép của Tế Công Hoạt Phật ” . Hàn Lão Tiền Nhân lại hỏi : “ Vậy Dẫn Bảo Sư là ai, công đức phí bao nhiêu, thầy có nói hay không; nếu như chẳng có nói thì phải thỉnh thị Nam Cực Tiên Ông đến Đàn chỉ thị ” . Mã Tổ thứ 13 nói : “ Thầy nói rằng Dẫn Sư của tôi chính là Vị Hôn Phu tiền kiếp của tôi, là cô Lâm Cúc - mẹ của Tam Tài, đang rửa chén ở trong nhà bếp, công đức phí cũng do cô ấy bỏ ra, Bảo Sư chính là vị ân nhân đã chôn cất thi thể của tôi kiếp trước, là cô Kim kiếp này ” , bèn như thế Lâm Cúc làm Dẫn Sư và dâng thay tiền công đức 5000 đài tệ, Bảo Sư là cô Kim, Mã Tổ thứ 13 Lâm Thiện Nương rốt cuộc mượn khiếu Tam Tài đã đắc thụ một chỉ điểm của Minh Sư. Từ đây có thể thấy thủ tục cầu đạo của Khí Thiên Tiên khá là rườm ra phức tạp và khốn khó.

    Ngoài ra còn có những vị Khí Thiên Tiên khác đắc đạo, như vị tể tướng nổi tiếng đời Tống – Tư Mã Quang là do Hàn Lão Tiền Nhân độ, do đó mà Hàn Lão Tiền Nhân đến Đài Loan khai hoang, Tư Mã Quang Đại Tiên thường thường hay giúp đỡ trợ đạo; lại còn có vị anh hùng khai Đài là Trịnh Thành Công cũng đã cầu đạo; sau khi đắc đạo thì ở làng Khê Khẩu của huyện Gia Nghĩa hiển hóa trợ đạo, đã đích thân độ Kê Đồng của ngài ấy cầu đạo, lại còn độ rất nhiều các nhân viên bàn sự ở trong miếu cầu đạo. Lại còn có Vân Du Cô Nương vốn dĩ cũng là một vị Khí Thiên Tiên, trước khi cầu đạo thì đúng vào lúc trận ôn dịch dân gian đang lan rộng, cô ấy khắp nơi hiển hóa cứu người. Lúc bấy giờ Sư Mẫu của chúng ta vẫn còn tại thế, thân thể có bệnh, cô ấy lại còn trị khỏi bệnh của Sư Mẫu, Sư Mẫu đã đích thân độ cô ấy. Cô ấy sau khi cầu đạo thì khắp nơi đi liễu tai trị bệnh. Lúc Sư Mẫu khai hoang bàn đạo, cô thường hay thác mộng cho những người trong thôn, hiển hóa độ người, do vậy Lão Mẫu sắc phong cô làm Giáo Hóa Bồ Tát, trở thành vị Tiên Trưởng của lớp “ Vân ” tự ban. Những vị Khí Thiên Đại Tiên cầu đạo giống như thế rất nhiều, đều có những huấn văn lưu lại lúc kết duyên làm bằng chứng.

    Cái gì gọi là giữa độ đông đảo chúng sanh cõi nhân gian ?

    Đông đảo chúng sanh cõi nhân gian chính là chỉ những người có thân người như chúng ta đây, bình thường chúng ta có thể chưa nghĩ qua, thật ra nếu như chúng ta ngẫm nghĩ một cái thì sẽ ý thức được rằng chúng ta có thể đắc được cái thân người này là vô cùng khó được đấy. Phật Thích Ca Mâu Ni lúc ấy ở vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc, tại Kì viên Tinh Xá xây nhà có công trình kiến trúc, Phật dẫn theo các đệ tử đi xem. Phật dùng tay bốc lấy một nắm đất, sau đó rải bỏ đi, trên móng tay ngài vẫn còn lại một ít. Đối với mỗi một động tác, mỗi một biểu thị của Phật, các đệ tử của ngài đều hỏi rằng : “ Thưa thầy, ý của thầy là như thế nào ? ” . Bởi vì Phật chẳng có nói đùa, nhất cử nhất động của ngài đều là khải thị cho người khác.


    Phật hỏi ngược lại các đệ tử : “ đất trên móng tay ta nhiều hay đất trên đất nhiều hơn ? ”. Đương nhiên là đất trên mặt đất nhiều rồi. Phật nói rằng : “ Con người chúng ta kiếp này sau khi chết rồi mà kiếp sau lại đắc được thân người, số lượng ấy giống như đất ở trên móng tay của ta vậy; còn những người sau khi chết rồi chẳng thể đắc thân người thì nhiều giống như đất trên đại địa vậy ”.

    Chúng sanh thì nhiều như đất của đại địa vậy, nhưng những chúng sanh có thể đắc được thân người thì lại chỉ có ít như đất ở trên móng tay vậy, do đó nói rằng xác suất có thể đắc được thân người là vô cùng nhỏ đấy. Bình thường chúng ta thường nghe nói rằng đắc đạo có bốn cái khó.


    Thứ nhất chính là thân người khó được. Tất cả động vật trên thế gian đều là có linh tánh cả, những con bò của lò giết mổ trước lúc bị giết đều sẽ chảy nước mắt; lại còn có con kiến tuy nhỏ cũng có linh tánh đấy; bình thường chúng ta thường nhìn thấy một con kiến phát hiện có thức ăn thì sẽ thông báo cho những con khác, đợi một lát thì rất nhiều những con kiến đều xếp hàng mà đến. Có thể thấy tất cả động vật đều có linh tánh, thế nhưng chúng rất bất hạnh không có lí trí. Linh tánh của chúng ta vô cùng may mắn, đã đắc được cái thân người này; nhân loại là có linh tánh nhất, thông minh nhất trong vạn vật, linh tánh hoàn chỉnh, chẳng giống như những động vật tứ sanh : Thai, Noãn, Thấp, Hóa đã mất đi lí trí, lại còn có những tàn linh và linh tánh bị đập vỡ trong cõi âm. Có thân người là điều vô cùng quý báu, đã mất đi thân người thì chẳng những khó mà nghe được Thiên Đạo, nỗi đau khổ ấy cũng là chẳng cách nào dùng lời nói để hình dung được. Chúng ta trong thời điểm tốt đẹp của phổ độ Tam Tào này đã sinh đến nhân gian, quả thật là vô cùng may mắn.Việc phổ độ Tam Tào, lấy đông đảo chúng sanh trong Nhân Tào này của chúng ta dễ được độ nhất, bởi vì chúng sanh có cái thân thể này, có thể nương nhờ vào cái nhục thể của chúng ta để tu linh tánh của chúng ta. Lúc ban đầu vào thời kì Thanh Dương, Hồng Dương, đối tượng để độ hóa chủ yếu là Nhân Tào. Lúc bấy giờ chưa có đại khai phổ độ, đều là một thầy truyền cho một đệ tử. Người tu hành nếu muốn đắc đạo đều phải bỏ nhà xả nghiệp xuất gia tu hành, ngàn dặm tìm Minh Sư, vạn dặm cầu khẩu quyết, quả thật là đạp nát giày sắt tìm chẳng thấy, nay chúng ta đắc được mà hoàn toàn chẳng phí công phu, chúng ta đã theo kịp thời điểm tốt đẹp Bạch Dương Kì, đạo giáng hỏa trạch ( thứ dân ), bá tánh thứ dân bất luận là sĩ nông công thương, vương gia hầu tước, tướng quân tể tướng, phú quý bần hàn, cơ hội đều nhất luật bình đẳng như nhau, người người đều có thể đắc đạo, đây có thể nói là thời cơ lớn tốt đẹp nghìn năm khó gặp; thế nhưng có vẻ như những người đến cầu đạo thì không phải là rất nhiều, đấy lại là nguyên nhân gì đây ? Đấy là vì hiện thời lòng người chẳng còn tốt như xưa, bát đức tiêu điều rời rạc, tửu sắc tài khí mê khiếu quấn bám lấy thân, gốc đạo đã bị chặt đứt. Thứ nữa là thời kì hiện nay vạn giáo tề phát, có không ít những tà giáo tả đạo bàng môn, những kẻ giả mạo cũng rất nhiều, hễ không cẩn thận thì rơi vào tả đạo bàng môn. Ngoài ra còn một nguyên nhân nữa : Những tội lỗi mà con người chúng ta đến thế gian 6 vạn năm nay đã tạo thật quá nhiều rồi; những oan nghiệt tiền kiếp sâu nặng, chủ nợ muốn đến làm nhiễu loạn nhân tâm, làm trở ngại người ta đắc đạo, bởi vì con người hễ một khi đã đắc được chơn đạo, thì những oan tình tiền kiếp chủ nợ muốn đòi bèn không dễ dàng rồi, bởi vậy họ sẽ nghĩ đủ hết các biện pháp làm trở ngại người ta cầu đạo. Giống như có những người đã quyết định cầu đạo rồi, đến phật đường đã ghi danh rồi, nghi thức bắt đầu rồi, họ đột nhiên thay đổi chủ ý, nói thế nào cũng chẳng chịu cầu đạo. Lại còn có người sau khi nghi thức bắt đầu thì đột nhiên ngất xỉu, sắc mặt chuyển sang xanh xao, miệng sùi bọt mép, đợi hễ khi dìu anh ta ra khỏi phật đường thì người bèn nhanh chóng lại tinh thần tỉnh táo trở lại. Những cái này chính là do những oan khiếm trước kia làm trở ngại, khiến cho họ chẳng thể đắc đạo. Bởi vì đủ thứ các nguyên nhân này, tuy rằng hiện nay đại khai phổ độ, những người đắc đạo vẫn là vô cùng ít, rất là đáng tiếc. Mọi người chúng ta vô cùng may mắn có thể thuận lợi đắc đạo, đấy là bởi vì chúng ta đã có 3 điều kiện : căn cơ, tổ đức, phật duyên. Căn cơ của chúng ta đều vô cùng tốt, trong “ Kim Cang Kinh ” ghi chép rằng : Tu Bồ Đề tâm mang sự từ bi lo lắng các đệ tử và những chúng sanh đời sau chẳng cách nào có thể đắc được chánh pháp bảo quý của Phật Đà, do đó bèn bạch hỏi Thế Tôn rằng : “ Bạch đức Thế-Tôn! Như có chúng-sanh nào được nghe những câu trong bài giảng- giải như vậy, mà sanh lòng tin là thiệt chăng? ”

    Đức Phật bảo ông Tu-Bồ-Đề: " Ông chớ nói lời ấy! Sau khi đức Như-Lai diệt-độ, năm trăm năm sau, có người trì-giới, tu phước, có thể sanh lòng tin nơi những câu trong bài nầy mà cho đó là thiệt, thời phải biết rằng người ấy chẳng phải chỉ vun trồng căn-lành từ nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật, mà người đó đã vun-trồng căn-lành từ nơi vô-lượng nghìn muôn đức Phật rồi 

    ( “ Bạch Đức Thế Tôn ! Tương lai sau này nếu như có chúng sanh do cơ duyên chín muồi mà được nghe chánh pháp, họ có thể tín thụ phụng hành, nảy sinh lòng tin hay không ? ” . Phật bèn khai thị nói rằng : “ này Tu Bồ đề, ông chẳng cần phải nghi ngờ âu lo, Diệu pháp bát nhã tuy rằng sâu áo chẳng dễ thể hội, thế nhưng thời kì mạt pháp vị lai sau này, bèn vào lúc 2500 năm sau khi Như Lai nhập niết bàn thì sẽ xuất hiện rất nhiều những người tu đạo phụng trì giữ giới mà lại rộng tu phước tuệ, được nghe chánh pháp, có thể nảy sinh lòng tin, và cho rằng đấy là điều xác thực. Thế nhưng ông phải biết rằng, những người này có thể nảy sinh lòng tin chẳng phải là cơ duyên ngẫu nhiênmà là do họ có thiện căn thâm hậu mà đắc được đấy. Họ không chỉ vun trồng căn lành ở một kiếp, hai kiếp, ba bốn năm kiếp, mà sớm đã ở nghìn vạn vô lượng kiếp đã vun trồng nhiều thứ thiện căn rồi, do đó họ nghe thấy đại đạo chánh pháp, trong tâm sẽ không sản sinh sự nghi hoặc, mà sẽ nhất tâm bất loạn đi hành sự bố thí Vô Vi, độ hóa chúng sanh. Tu Bồ Đề, hôm nay Như Lai dùng ngũ nhãn nhìn xa vị lai, sau 2500 năm, những người được nghe chánh pháp mà tu phước huệ này, công đức mà họ đã tạo là chẳng thể đo lường được, như 10 phương hư không chẳng thể suy lường được ”.

    Thời kì mà chúng ta hiện đang ở đang đúng vào 2500 năm sau khi Như Lai nhập niết bàn; mọi người chúng ta có thể đắc được chơn đạo, thành tâm tu hành, có thể thấy rằng căn cơ của chúng ta vô cùng tốt. Chúng ta không chỉ đã vun trồng căn lành ở một kiếp, hai kiếp, ba bốn năm kiếp, mà từ sớm đã trồng nhiều hạng căn lành ở vô lượng nghìn vạn kiếp.

    Ngoài ra mọi người chúng ta đều là Tổ Thượng có đức. Trong Dịch Kinh viết rằng : “ Nhà nào tích lũy điều lành thì tất có thừa phúc để đến đời sau ). Nhà nào tích lũy điều ác thì tất có dư tai ương ” . Những người lương thiện và những nhà lương thiện tương lai sẽ có những việc cát tường; những người và những nhà làm chuyện ác tương lai sẽ có những họa hoạn. Ví dụ như Dương Bảo đời nhà Hán đã từng cứu một con chim sẻ vàng, đức của ông ấy khiến cho bốn đời sau của ông ấy đều trở thành vương gia, hầu tước, tướng quân, tể tướng. Con trai của ông là Dương Chấn chính là vị quan thanh liêm một đời, con cháu đời sau của ông ấy vẫn lấy “ Tứ Tri Đường ” làm điều vinh hạnh. Do vậy nói Tổ Đức cũng là vô cùng quan trọng. Hiện nay tuy rằng đạo giáng thứ dân, thế nhưng nếu như Tổ Tiên của chúng ta chẳng có làm công đức, thì cũng sẽ chẳng có những con cháu tu đạo chúng ta đây.

    Trước kia đã phát sinh qua một trường hợp cụ thể : tháng 8 năm 1987, có một đôi vợ chồng trẻ tuổi, người chồng sớm đã cầu đạo, sau khi đã hiểu sự bảo quý của đạo thì độ vợ của anh ta đi cầu đạo. Cô vợ đến phật đường chuẩn bị cầu đạo rồi, đột nhiên thân thể không khỏe, sắc mặt trắng bệch, miệng sùi bọt mép, cứ mãi muốn nôn, toàn thân trở nên chẳng có chút hơi sức, đến mức chẳng cách nào chống đỡ nổi, mọi người vội vàng dìu cô ấy đến bên ngoài phật đường để nghỉ ngơi, cô vợ này ngồi xuống chỉ có 3, 5 phút thì trạng thái bệnh khi nãy toàn bộ đều biến mất, bèn thế lại tiến vào phật đường chuẩn bị cầu đạo, kết quả lại là tái phát trở lại như cũ, mọi người lại vội vàng dìu cô ra ngoài phật đường, cứ thế mà lặp đi lặp lại đến mấy lần, rốt cuộc chẳng thể cầu đạo. Trong lúc chuyện trò với cô, tự cô bảo với mọi người rằng cha cô là một người lính, đã giết qua rất nhiều người. Kết quả Điểm Truyền Sư từ bi khéo léo khuyên bảo, để cô quay về nhà trước, bảo cô hãy đọc tụng kinh điển, sách khuyến thiện, hiểu rõ sự tuần hoàn nhân quả, và trì giới ăn chay trước đã, sau này lại đến cầu đạo. Cô ấy lúc ban đầu vẫn là kiên trì muốn cầu đạo, sau đó nghĩ đi nghĩ lại bèn nhận lời rằng : “ được, sau này lại đến cầu đạo ” . Lời này của cô vừa mới dứt, thân thể nhanh chóng tỉnh táo trở lại. Cô nói cô đột nhiên toàn thân cảm thấy dễ chịu, hoàn toàn đã khỏi hẳn rồi. Do vậy chúng ta thấy rằng Tổ đức vô cùng quan trọng.

    Mọi người chúng ta đều rất có phật duyên, bình thường chúng ta đều đã nghe qua một câu nói : “ hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng ” . Câu nói này là nói duyên phận giữa người với người, vậy thì duyên phận giữa người và phật cũng như thế; nếu như có phật duyên, được nghe Thiên Đạo thì sẽ sinh phát lòng tin, nỗ lực tu trì; nếu như chẳng có duyên với phật, bất kể là bạn nói thế nào với họ, họ đều sẽ không nảy sinh bất cứ sự hứng thú nào. Do đó nói người có duyên nghe đạo chẳng bỏ, kẻ vô duyên thì khó mà cưỡng cầu. Phật vốn dĩ đại từ đại bi, thế nhưng cũng có 3 loại người mà phật chẳng cách nào độ, một trong số 3 loại đó chính là người không có duyên thì chẳng độ. Nếu như một người chẳng có phật duyên, phật muốn độ anh ta cũng là chẳng cách nào độ được. Do vậy có một câu nói rằng : “ trời mưa tuy lớn chẳng thấm nhuận cỏ không gốc, cửa phật tuy rộng khó độ người vô duyên ” . Nay chúng ta biết mọi người chúng ta hôm nay có thể đắc được cái đạo bảo quý này là bởi vì chúng ta đã có đủ ba điều kiện; chúng ta kiếp trước đều đã vun trồng xuống 7,5,3 nhân, nghĩa là nói 7 kiếp gieo nhân tốt, 5 kiếp được thân người, 3 kiếp vô cùng may mắn, chúng ta cũng là lũy kiếp có tu, kiếp này mới có duyên đắc đạo, chúng ta phải thật tốt mà trân trọng lấy.

    Thế nào gọi là dưới độ u minh quỷ hồn ?

    Lúc mới bắt đầu đại khai phổ độ, ơn trên Lão Mẫu quy định : “độ sinh chẳng độ tử ” . Sau đó thông qua sự khẩn cầu mãi của các vị Tiên Phật như Tam Quan Đại Đế, Địa Tạng Cổ Phật, Nam Hải Cổ Phật, … Lão Mẫu mới cho phép âm dương đều cùng độ như nhau, và tại Lí Thiên đã thiết lập ra Thiên Phật Viện; người tu đạo nếu như đủ công đức thì có thể siêu bạt cha mẹ, tổ tiên; những linh hồn được siêu bạt trở về ở Thiên Phật Viện chờ đợi định vị, công đức kiêm tu, chọn vào siêu đẳng.

    Vậy thì làm thế nào mới có thể siêu bạt tổ tiên đây ? Sư Tôn của chúng ta là phân linh của Tế Công Hoạt Phật, lúc tại thế rất hiếu thuận, ngài trước lúc cầu đạo đã nghe nói rằng cầu đạo có thể siêu bạt cha mẹ thoát lìa biển khổ của sinh tử luân hồi, thăng nhập thiên đường. Do phụ thân sớm qua đời, chưa được tận đạo hiếu, do vậy ngài quyết tâm cầu đạo, siêu bạt phụ thân. Sư tôn sau khi cầu đạo thì vô cùng tận tâm mà tu đạo bàn đạo, và đã độ được 64 người; dựa theo phật quy lúc bấy giờ thì độ được 100 người mới có thể siêu bạt một lớp phụ mẫu. Sư Tôn sau khi đã độ được 64 vị, có độ nữa cũng chẳng cách nào độ nhiều người thêm nữa. Do vậy, Sư Tôn rất ưu sầu. Điểm Truyền Sư của Sư Tôn lúc bấy giờ là thầy Cảnh, nhìn thấy Sư Tôn tấm lòng hiếu thảo như vậy, bị làm cho cảm động, bèn thỉnh thị Lão Tổ Sư, nói rằng Sư Tôn của chúng ta thành tâm muốn siêu bạt phụ thân, chỉ là không thể độ được 100 người, nên vô cùng khổ sở buồn rầu. Lão Tổ Sư nghe rồi bèn khẩn thỉnh Lão Mẫu từ bi. Lão Mẫu ân chuẩn : “ Kể từ người này trở đi ( chỉ Sư Tôn ) , 64 công thì thêm 1 quả, từ nay về sau, những người thành tâm tu đạo, độ 64 người thì có thể siêu bạt một bậc phụ mẫu ”. Do vậy, từ sau Sư Tôn của chúng ta trở đi, những người thành tâm tu bàn đạo, độ được 64 người thì có thể siêu bạt một bậc phụ mẫu.Linh tánh của những vị tổ tiên được siêu bạt lập tức trở về đến Tự Tu Đường của Thiên Phật Viện ở Vô Cực Lí Thiên, trải qua sự tu luyện trăm ngày, khôi phục lại bổn thể thuần dương, sau đó lại do ơn trên Lão Mẫu phái Tam Quan Đại Đế đến dựa theo công đức của họ mà định quả vịthế nhưng quả vị đã định phải dựa trên sự tu dưỡng của họ lúc còn sống và công đức của con cháu họ, lấy đó mà làm tiêu chuẩn. Do đó mối quan hệ giữa vong linh được siêu bạt và người tu đạo cực kì mật thiết với nhau.

    Vậy chúng ta làm sao biết những vị tổ tiên được siêu bạt có thể trở về Lí Thiên đây ?

    Bởi vì những vong linh được siêu bạt sau khi trải qua trăm ngày thì có thể do tiên phật đưa đến phật đường kết duyên phê huấn, nói rõ những sự trải qua nỗi khổ luân hồi của địa phủ và họ đã siêu thoát như thế nào, sự trải nghiệm phi thăng cực lạc lí thiên như thế nào, và những việc lúc còn sống chưa xử lí rõ ràng, những lời nói lúc lâm chung chưa dặn dò giao phó rõ ràng; giọng điệu nói chuyện của họ y như lúc còn sống, vả lại có thể nói ra rất nhiều những việc chỉ có những người trong nhà của mình mới biết được.

    Trước kia một vị đạo thân Đài Loan siêu bạt phụ thân của anh ta; sau khi siêu bạt 100 ngày thì quay về kết duyên, bảo rằng ông ấy thật ra đã đầu thai rồi, ở thôn XX, tên gọi là XX, linh tánh của ông ta sau khi được siêu bạt thì lập tức trở về đến Lí Thiên. Những đạo thân xung quanh nghe thấy rồi đều muốn đi chứng thật sự việc này. Mọi người nghĩ cái thôn mà anh ta nói đó đằng nào thì cũng ở Đài Loan, chi bằng cứ đi xem cho ra lẽ thực hư rõ ràng. Mọi người đến cái thôn ấy, dò hỏi nghe ngóng cái tên của ông ta. Kết quả họ đã tìm thấy một hộ gia đình, một cụ già từ trong nhà bước ra, mọi người tiến về trước hỏi rằng : “ đây là nhà của XX phải không ? ” . Cụ già trả lời rằng : “ cậu ta là con trai của tôi, mấy tháng trước làm việc ở trong ruộng, đột nhiên chết đi, bác sĩ chẩn đoán thì là bị chứng nhồi máu cơ tim ” . Mọi người tính toán thời gian tử vong mà cụ già đã nói vừa đúng chính là thời gian mà bàn đạo siêu bạt ông ấy.

    Lại còn có một số những trường hợp cụ thể siêu bạt tổ tiên khác, năm 1978 Chu Điểm Truyền Sư cũng có siêu bạt phụ thân của ông ấy, lúc bấy giờ có một vị đạo thân có huệ nhãn, tận mắt nhìn thấy quá trình mà phụ thân của Chu Điểm Truyền Sư được siêu bạt. Trước việc này, vị đạo thân có huệ nhãn này chưa từng thấy qua phụ thân của Chu Điểm Truyền Sư, chẳng biết họ dáng vẻ trông như thế nào, làm chức nghiệp gì, cũng chẳng biết tình trạng gia đình của Chu Điểm Truyền Sư; sau khi bàn xong việc siêu bạt, anh ta đem tình hình mà mình tận mắt nhìn thấy được kể lại ra cho mọi người nghe, vừa đúng khớp hoàn toàn với tình hình thật tế của cha mẹ Chu Điểm Truyền Sư.

    Từ những điều này, chúng ta có thể đắc được sự nghiệm chứng rằng những tổ tiên được siêu bạt hễ trải qua sự siêu bạt thì lập tức trở về đến cõi Vô Cực Lí Thiên.

    Vậy còn những người bình thường như chúng ta công đức chẳng đủ không thể siêu bạt tổ tiên, họ bèn phải chờ đợi chúng ta sau trăm tuổi khi trở về Lí Thiên thì họ mới có thể cùng với chúng ta trở về; thế nhưng lúc bình thường những gì mà chúng ta tu đạo đã làm thì họ đều có thể triêm quang của chúng ta. Có câu nói rằng : “ một đứa con đắc đạo, cửu huyền thất tổ đều triêm quang; một đứa con thành đạo, cửu huyền thất tổ thảy đều siêu sanh ” . Bắt đầu từ ngày chúng ta đắc đạo trở đi, cửu huyền, thất tổ của chúng ta bèn sẽ được triêm quang của chúng ta. Họ nếu như có ở nơi địa phủ, bắt đầu kể từ lúc chúng ta cầu đạo, trước ngực của họ bèn có thể đeo một đóa sen trắng đến chỗ của Địa Tạng Cổ Phật để nghe kinh. Tất cả những gì mà chúng ta đã làm ở đạo trường lúc bình thường họ đều được triêm quang; bình thường chúng ta đến phật đường thì họ cũng có thể theo chúng ta đến để học tập đạo lí; chúng ta đi dự pháp hội, thì họ cũng có thể theo chúng ta cùng đi dự. Do vậy, chúng ta bình thường đến phật đường hoặc tham gia pháp hội nếu mà do dự : rốt cuộc nên đi hay là không đi đây ? thì cửu huyền thất tổ của chúng ta bèn sẽ rất căng thẳng, sợ rằng chúng ta không đi. Những gì mà bình thường chúng ta tu đạo, bàn đạo đã làm cũng đều liên quan đến cửu huyền thất tổ của chúng ta, họ đều có thể triêm quang.

    Chúng ta bình thường hay nói rằng trăm thiện hiếu đi đầu, cũng có nghĩa là nói rằng cái thiện lớn nhất chính là hiếu thuận, vậy thì chúng ta làm thế nào để tận hiếu đây ? “ Hiếu Kinh ” mà Khổng Lão Phu Tử đã sáng tác trong đó nói đến : “ Thân thể tóc da thọ nhận của cha mẹ, không dám làm tổn hại thì là cái hiếu ban đầu vậy, lập thân hành đạo để tiếng tốt về sau, tu cho đắc cái thân này trở nên Tiên, Phật, Thánh, Hiền, làm rạng danh cha mẹ, thì hiếu đó là tận cùng vậy .” Hiếu thuận phải từ chỗ chăm sóc bản thân không bị bất cứ sự làm tổn thương nào, bắt đầu từ chỗ không khiến cho cha mẹ đau lòng, sau đó chúng ta đều biết nghe theo cha mẹ, chăm sóc cha mẹ, đối tốt với cha mẹ lúc cha mẹ còn tại thế; sau khi cha mẹ qua đời thì thật tốt mà an táng cho cha mẹ, tế bái cha mẹ. Thế nhưng đại hiếu nhất của đại hiếu chính là chúng ta lập thân hành đạo, khiến cho cha mẹ siêu sanh liễu tử, cùng đăng cực lạc.

    Quán Thế Âm Bồ Tát lúc tại thế bất kể sự phản đối của cha mẹ, ngài thành tâm tu đạo cuối cùng thành phật bà thiên thủ thiên nhãn, cửu huyền thất tổ cùng đăng cực lạc. Phật Thích Ca lúc còn tại thế cũng là đi ngược lại lệnh cha mà xuất gia, bên ngoài thì trông có vẻ như là bất hiếu, thế nhưng ngài tu thành phật tổ, cửu huyền thất tổ thảy đều siêu sanh. Do đó nói đại hiếu lớn nhất của đại hiếu chính là chúng ta lập thân hành đạo. Mạnh tử nói rằng: “ Tội bất hiếu có ba điều, mà không con nối dõi là lớn nhất ”. Vì sao mà không con nối dõi là lớn nhất đây ? Bởi vì nếu như chẳng có con cháu đời sau nối dõi, đến thời điểm đại khai phổ độ hiện nay thì Tổ Tiên bèn chẳng được triêm cái quang của con cháu đời sau cầu đạo tu đạo rồi.

    Địa Tạng Cổ Phật có đại nguyện rằng : “ địa ngục không trống, thề không thành phật ” . Ngài nguyện độ tận tất cả những u minh quỷ hồn trong địa ngục. Hiện nay ơn trên khai ân phổ độ Tam Tào, những vong linh của địa ngục rốt cuộc đã đợi được đến ngày thoát lìa cảnh khốn khổ rồi; như những người đời chúng ta rất nhiều người đều vẫn chưa hiểu sự bảo quý của đạo, đều chẳng đến cầu đạo, thế nhưng những vong linh của địa phủ họ đều biết rằng cái đạo này là thật, là bảo quý vô cùng, đều rất muốn cầu đạoCó rất nhiều vong linh đến phật đường hiển hóa muốn cầu đạo, họ đều là liều mạng khẩn khoản nài xin.

    Năm 1960 có vị oan hồn Chu Phụng Liên đã lãnh thánh chỉ của Ngọc Hoàng Đại Đế đến cầu đạo. Chu Phụng Liên lúc còn sống là người Bình Đông, cha mẹ đều qua đời vào năm cô lên ba, được một gia đình ở làng Khê Châu nhận làm con nuôi. Lúc đầu cô được cha mẹ nuôi rất mực cưng yêu, nhưng hai năm sau, vào lúc em năm tuổi, dưỡng mẫu sinh hạ được một đứa em trai, lòng thương của cha mẹ nuôi dời sang cho người em, xem Phụng Liên như là cái gai trong mắt, và em bị dưỡng mẫu ngược đãi từ đó. Lúc em mười tuổi, một hôm đang đánh nước, em bị dưỡng mẫu đẩy xuống giếng mà chết. Dưỡng mẫu sợ chuyện bị lộ, lại lấy đá lấp giếng. Sau khi chết, du hồn được thần Thổ Địa dẫn đi gặp Diêm Vương. Vì chết oan, đúng ra bị dẫn đến thành Uổng Tử, nhưng Diêm Vương xét trước kia có 3 kiếp đều làm Ni Cô, đã từng làm người đắp cầu sửa đường, tu tích rất nhiều cho nên từ bi phát cho một đóa bông sen trắng và dặn Thần Thổ Địa dắt đến pháp hội tại Sùng Tín Phật đường ở huyện Vân Lâm Đài Loan để nghe pháp. Sau khi nghe giảng sư nói đến Tam Tào phổ độ, trong thời kỳ này, nhân, quỷ, Tiên đều có thể cầu đạo nên bạch cùng thần Thổ Địa rằng cô muốn cầu đạo. Thần Thổ Địa nói cô chỉ là một thiện hồn, muốn cầu đạo rất khó, phải có sắc chỉ của Ngọc Hoàng Đại Đế hay Nam Cực Tiên Ông mới được. Lại dặn rằng nếu ở pháp hội gặp Nam Hải Quan Âm Cổ Phật thì cầu xin cổ phật từ bi giúp đỡ. Sau khi gặp Cổ Phật và được Cổ Phật dẫn đi yết kiến Ngọc Hoàng Đại Đế, xét kiếp trước cô là một người tích đức hành thiện, nên Ngọc Hoàng Đại Đế ban một sắc chỉ cho cô đến cầu đạo. Do đó vào lúc pháp hội ngày 23 tháng 1 năm 1970, sau khi đã lãnh thánh chỉ của Ngọc Đế, cô đã đến phật đường quỳ cầu Lão Tiền Nhân, may nhờ lúc đó Ân Sư Tế Công Hoạt Phật đến mượn khiếu của cô Hà Thúc Mịch, chứng thực lời nói của Chu Phụng Liên, lại chỉ thị cho Lão Tiền Nhân, nhờ cô Hà Thúc Mịch làm dẫn sư, cô Hoàng Tiếp Cầm làm bảo sư, nộp 50 đồng công đức phí cho Chu Phụng Liên cầu đạo. Thế nhưng những vong linh có thể lấy được lệnh bài giống như thế là rất ít đấy, phần lớn đều lấy không được lệnh bài không thể cầu đạoHọ chỉ có thể mong ngóng trông chờ vào con cháu của mình cầu đạo tu đạo để che chở họ. Vậy hôm nay chúng ta có cầu đạo, tu đạo, tổ tiên của chúng ta sẽ vì có những con cháu như chúng ta đấy mà cảm thấy vô cùng tự hào. Do đó vì cửu huyền thất tổ của chúng ta, mọi người chúng ta phải cùng nhau cố lên, cùng nhau nỗ lực.

    Kết Luận

    1. Trong Tam Tào ( Thiên Tào, Nhân Tào, Địa Tào ) thì con người là tu đạo tiện lợi nhất.

    Thông qua những điều đã nói ở trên, chúng ta có thể hiểu được rằng trong Tam Tào thì con người là tu đạo tiện lợi nhất, bởi vì chúng ta có cái thân người này. Chúng ta có thể mượn dùng cái thân thể này đi làm việc ác khiến chúng ta đọa xuống địa ngục, cũng có thể mượn dùng cái thân thể này tu đạo khiến chúng ta quay trở về lại Vô Cực Lí Thiên, do vậy thành tiên làm phật hay là làm ác quỷ thảy đều do tự bản thân chúng ta lựa chọn, đấy là đặc quyền mà ông trời ban cho con người. Hiểu được cái đạo lí này rồi chúng ta phải nhân lúc có cái thân thể này để mượn giả tu chơn, chúng ta có miệng có thể giảng nói đạo lí, trời chẳng nói mượn nhờ vào con người để nói; Ông trời, tiên phật phải mượn nhờ vào cái miệng của chúng ta để truyền dương đại đạo, vả lại chúng ta có tay có chân, có thể giúp đỡ việc thánh, do vậy, chúng ta phải trân trọng ngay lúc ấy, mượn nhờ vào có cái nhục thể này để tu linh tánh của chúng ta, đấy chính là mượn giả tu chơn. Trước kia khi chúng ta chưa học tập đạo lí thì rất xem trọng cái nhục thể này, tuổi tác càng lúc càng lớn, nếp nhăn càng lúc càng nhiều, tóc càng lúc càng trắng, tinh thần của con người sẽ càng lúc càng nản, chẳng biết nơi quay về của đời người rốt cuộc là đâu. Thế nhưng hôm nay chúng ta may mắn có cầu đạo, chúng ta sẽ không bởi vì những thay đổi này của vẻ ngoài nhục thể mà cảm thấy nản; người tu đạo chúng ta vĩnh viễn tràn đầy niềm hy vọng. Chúng ta đắc thụ một chỉ điểm của Minh Sư thì đột nhiên đại ngộ, đã hiểu rõ mình từ đâu mà đến, từ đâu mà đi, đã hiểu rõ rằng chỉ có mượn nhờ vào cái nhục thể này nỗ lực tu đạo mới có thể khiến linh tánh của chúng ta đắc được sự giải thoát rốt ráo. Trước kia khi chúng ta có tuổi rồi, những căn bệnh trên thân thể càng lúc càng nhiều sẽ khiến chúng ta rất phiền não; nay chúng ta phải đem mỗi căn bệnh trên thân thể đều xem như là một tiếng chuông tín hiệu báo động để thúc giục chúng ta rằng cái thân thể này có một ngày rồi sẽ hư hoại, hãy nhân lúc hiện tại vẫn còn có thể động thì phải làm nhiều, tận tâm tận sức giúp đỡ việc thánh, người trời hợp nhất để viên mãn một lần Tam Tào đại thâu viên này.


    2. Hành công liễu nguyện, trợ giúp thầy bàn lí việc mạt hậu thâu viên

    Mọi người chúng ta vô cùng may mắn đã theo kịp thời kì Bạch Dương đại khai phổ độ, có thể đắc trước tu sau. Quá khứ Thanh Dương Kì, Hồng Dương Kì đều là tu trước đắc sau, những người tu đạo lúc bấy giờ nếu như muốn đắc được đại đạo thì đều phải bỏ nhà xả nghiệp, ngàn dặm tìm Minh Sư, vạn dặm cầu khẩu quyết, khổ tu khổ luyện nơi núi sâu động cổ, sau đó hành 3 ngàn công viên, tám trăm quả mãn, sau đó ông trời còn phải khảo nghiệm họ, xem coi họ tục duyên phải chăng đã liễu dứt, hỏa hầu phải chăng đã đạt rồi, rồi sau đó mới truyền đạo cho họ. Những người của thời đó muốn đắc đạo quả thật là vô cùng khốn khó. Nay chúng ta đã theo kịp thời điểm tốt, đạo mà từ xưa chẳng dễ gì tùy tiện truyền cho thì nay chúng ta đã đắc được một cách rất dễ dàng; chúng ta tuyệt đối chớ có bởi sự dễ dàng đắc được thì bèn không trân trọng. Chúng ta phải ghi nhớ rằng hiện nay thời kì Bạch Dương là đắc trước tu sau, chúng ta đắc đạo rồi vẫn phải tu đạoVào cái hôm mà chúng ta cầu đạo, những chủ nợ oan nợ lũy kiếp đến nay của chúng ta đều cản trở chúng ta cầu đạo. Thầy của chúng ta phải nói với họ, nói đỡ lời, thỉnh cầu thay cho chúng ta, bảo với họ rằng chúng ta sau khi cầu đạo sẽ hành công lập đức để bù đắp cho những lồi lầm sai trái trước kia; mỗi người chúng ta có thể đắc đạo thì thầy của chúng ta đều gánh thay cho chúng ta 7 phần nợ nghiệp, bởi vậy chúng ta đắc đạo rồi phải nỗ lực mà tu đạo để báo đáp một phần vạn thiên ân sư đức. Chúng ta có thể đắc đạo, có thể có điều kiện tốt như thế để tu đạo phải cảm tạ ông trời khai ân, cảm tạ Di Lặc Tổ Sư hồng từ, cảm tạ Sư Tôn, Sư Mẫu đại đức. Chúng ta phải ghi khắc trong lòng rằng nơi Lí Thiên có ơn trên Lão Mẫu, chư thiên tiên phật, sư tôn, sư mẫu của chúng ta đang mong ngóng chờ đợi chúng ta trở về; nơi Thiên Tào, Địa Tào có cửu huyền thất tổ của chúng ta, họ đang mong ngóng chờ đợi triêm quang của chúng ta. Mỗi người chúng ta đều là đỉnh thiên lập địa, mỗi người chúng ta đều gánh sứ mệnh mà ông trời ban cho chúng ta. Sứ mệnh của chúng ta chính là việc thánh mà chúng ta hiện đang làm, do đó bất luận là chúng ta đang làm gì, chúng ta đều phải mang một sự thành tâm nỗ lực làm cho tốt, tận tâm tận sức hành công liễu nguyện, cùng trợ đạo bàn, làm cánh tay trái, cánh tay phải đắc lực của Sư Tôn, Sư Mẫu, xử lí tốt đại sự mạt hậu thâu viên lần này. Thầy từ bi nói rằng : “ Chư Phật Bồ Tát và chúng sanh của tam giới thập phương đều đang vì nhân duyên phổ độ của Di Lặc ứng vận lần này mà vui mừng hân hoan, tận bi nguyện của mình dốc toàn sức vì công việc Tam Tào thâu viên mà nỗ lực, mà chủ đạo mối nhân duyên lớn này lại hoàn thành ở nhân gian. Đồ nhi ơi, nhóm bạch dương tu sĩ các con đây nên nắm bắt thời kì tốt đẹp này, chân thành chơn tu mới không phụ sự trợ hóa của người trời ” .

    Phụ lục

    Ấn chứng về siêu bạt

    Năm 1978, Chu Điểm Truyền Sư ( lúc bấy giờ là Đàn Chủ ) siêu bạt cha mẹ; trong nghi thức ấy có một vị đạo thân có huệ nhãn tận mắt đã nhìn thấy toàn bộ quá trình trải nghiệm; anh ta nhìn thấy Địa Tạng Cổ Phật dẫn cha mẹ của Chu Điểm Truyền Sư đến. Cha của Chu Điểm Truyền Sư ăn mặc theo kiểu tiều phu, thân gánh đòn gánh, một chân đi khập khễnh; mẹ của Chu Điểm Truyền Sư mặc bộ y phục vải hoa vụn mộc mạc giản dị, hai người thay phiên nhau gánh lấy một chiếc đòn gánh, khi đến một chỗ phân giới phải lên một chỗ cao, mẹ của Chu Điểm Truyền Sư chẳng chịu gánh đòn gánh nữa, nói với cha của ông rằng : “ Tôi phải đi hưởng phước rồi, phải gánh đòn gánh để làm gì ? ” . Cha của ông vẫn chấp trước ở công cụ “ kiếm cơm ” của lúc còn tại thế, độc tự một mình gánh lên vai, cứ mãi chẳng chịu buông xuống. Bèn vào lúc sau khi Chu Điểm Truyền Sư quỳ ở trước Phật thay cha mẹ nhận một chỉ điểm của Minh Sư, chỉ nghe thấy “ cạch ” một tiếng, cha mẹ của ông bay hướng lên trên trời, vừa nhanh vừa cao, chẳng mấy chốc thì đã không nhìn thấy bóng dáng đâu rồi, chiếc đòn gánh ấy thì rơi về lại chỗ cũ ban đầu, có thể thấy rằng tất cả mọi thứ có hình có tướng của thế tục đều là hư vọng cả, chẳng buông cũng phải buông xuống.

    Trước khi việc này xảy ra, vị đạo thân có huệ nhãn này chưa từng thấy qua cha mẹ của Chu Điểm Truyền Sư, chẳng biết họ dáng vẻ trông thế nào, là làm nghề gì, cũng chẳng biết tình trạng gia đình của Chu Điểm Truyền Sư; sau khi bàn xong việc siêu bạt thì mới biết rằng cha của Chu Điểm Truyền Sư lúc còn sống là một tiều phu, lấy việc đốn củi làm sự mưu sinh. Một chân có chút không tiện, đi đường chân khập khiễng, vừa đúng khớp với tình hình mà anh ta nhìn thấy.

    Chu Điểm Truyền Sư chính là đã siêu bạt cha mẹ của ông như thế, dưới đây chúng ta hãy xem nhân quả ba đời của Chu Điểm Truyền Sư.

    Kiếp thứ nhất của Chu Điểm Truyền Sư : sinh ra tại tỉnh Tứ Xuyên, là một vị thư sinh, họ Ôn tên là Thế Tạo, đã ly tán thất lạc người nhà trong cảnh binh hoảng mã loạn, sau nghe ngóng được rằng cha mẹ lưu lạc ở bắc kinh, do đó bèn quyết định đi từ Tứ Xuyên đến Bắc Kinh để tìm kiếm cha mẹ. Ông trèo đèo vượt núi, đói thì ăn rễ cây, khát thì uống nước suối. Có một hôm ông đã gặp phải sơn tặc, tên sơn tặc này tên gọi là Đổng Vạn Lai; sơn tặc vốn dĩ muốn cướp giật Ôn Thế Tạo, thế nhưng nhìn thấy ông ta đã hơi thở thoi thóp, bị lòng hiếu thảo của ông khiến cho cảm động, bèn dẫn phát lòng trắc ẩn, tự mình lấy ra ngân lượng thành toàn ông đi tìm kiếm cha mẹ. Ôn Thế Tạo sau khi tìm thấy cha mẹ rồi quay lại Tứ Xuyên muốn tìm Đổng Vạn Lai để báo ân, thế nhưng Đổng Vạn Lai đã không còn ở trên cõi đời rồi.

    Kiếp thứ hai của Chu Điểm Truyền Sư : vào cuối đời nhà Thanh, tại Quảng Đông có một người nhà giàu, tên gọi là Đổng Vạn Thiện, lúc bình thường hay ưa thích bố thí, càng vui thích việc trai tăng bố đạo, hoằng dương phật pháp. Có một hôm tình cờ đúng lúc bạn thân sinh nhật làm thọ rất náo nhiệt, người ta đang sắp giết một con dê, ông ta nhìn thấy bèn mua con dê này thả về lại trong núi. Con dê này chính là vị thổ phỉ đã thành toàn ông và cha mẹ đoàn tụ mà Chu Điểm Truyền Sư đã gặp trong kiếp thứ nhất.

    Kiếp thứ 3 của Chu Điểm Truyền Sư : chính là vào kiếp này, cha của ông tên là Chu Kim Đỗ, chính là con dê núi ấy. Có người nói : “ vợ chồng là duyên, ác duyên thiện duyên, vô duyên chẳng kết; cha con là nợ, đòi nợ trả nợ, chẳng nợ chẳng đến đòi ” . Cha của Chu Điểm Truyền Sư là một ông tiều phu lấy việc đốn củi làm sự mưu sinh; lúc trung niên đã bị trúng phong nên hành động không tiện. Lúc bấy giờ Chu Điểm Truyền Sư tuổi tác vẫn còn nhỏ thì đã biết phụng dưỡng chăm sóc cha mẹ, sắc thuốc cho cha mẹ uống, thế nhưng chẳng may cha mẹ nối tiếp nhau qua đời. Chu Điểm Truyền Sư sau đó nghe nói rằng cầu đạo có thể : “ một đứa con đắc đạo Cửu Huyền Thất Tổ đều triêm quang, một đứa con thành đạo Cửu Huyền Thất Tổ thảy đều siêu thăng ” . Sau khi ông đã đắc được đại đạo bảo quý này rồi, càng thêm tinh tấn, nghiên cứu đọc tụng kinh điển và các sách đạo, đặc biệt dụng tâm, dốc tận hết sức, đã khai thiết phật đường của chính mình, sau đó phát tâm siêu bạt cha mẹ, cuối cùng đã thực hiện được chí nguyện, đã siêu bạt được cha mẹ của mình.

    Trải nghiệm đắc đạo của Hàn Tín Tướng Quân

    Hàn Tín là vị công thần khai quốc của đời nhà Hán, sau trăm năm trở thành vị Tiên cõi Khí Thiên. Tại cõi Khí Thiên, ông đã phiêu bạt hơn 2000 năm, rốt cuộc vẫn không thể trở về lại Lí Thiên, do vậy bèn đến Nam Bình Sơn quỳ cầu thầy Tế Công từ bi, đã quỳ suốt 34 ngày, chịu tận những sự vùi dập của mưa gió sương, hai đầu gối chân mài rách chảy máu, chỉ để cầu một chỉ điểm của Minh Sư, có thể siêu vượt cõi khí thiên để vào cõi Lí Thiên.

    Tuế Thứ năm Đinh Tị, vào ngày 11 tháng 9, ông lại đến Phật Đường Phụ Nhân thuộc Tân Trúc để kết duyên, quỳ cầu Trương Tiền Nhân từ bi có thể cho thụ một chỉ điểm để trực siêu Lí Thiên. Trương Tiền Nhân nói rằng : “ phải thỉnh thị Lão Tiền Nhân từ bi cho phép ” . Hàn Tướng Quân bởi vì lúc bấy giờ thời gian có hạn, chẳng dám kéo dài trì hoãn, do vậy bèn khấu từ Mẫu Giá, trở về cõi Khí Thiên. Trước khi sắp đi, lại lần nữa quỳ cầu xin Trương Tiền Nhân từ bi cho đắc thụ một chỉ điểm, và nói rằng nhất định sẽ giúp đỡ trợ đạo.

    Ngày 24 tháng 10 giờ Tuất, lúc pháp hội bế ban, lúc Nam Cực Tiên Ông lâm đàn, Lão Tiền Nhân cứ mãi một lần lại một lần thỉnh thị Tiên Ông việc Hàn Tướng Quân cầu đạo, Tiên Ông nói rằng : “ không được ” . Viện Trưởng lại lâm đàn, Hàn Tướng Quân quỳ đất khóc cầu, chẳng chịu đứng dậy, Lão Tiền Nhân cũng cầu Viện Trưởng từ bi, những người tại hiện trường đều cảm động đến rơi nước mắt, cùng nhau quỳ cầu Viện Trưởng từ bi. Hàn Tướng Quân khấu đầu vang dội, Viện Trưởng nói rằng : “Hàn Tín quỳ ở núi Nam Bình khấu cầu Hoạt Phật Ân Sư từ bi đã có hơn một tháng rồi ” , lại nói với Hàn Tướng Quân rằng : “ngày 28 tháng 11 lại bàn bạc sau vậy, đến lúc đó tôi sẽ thay ông lâm đàn lại cầu xin Lão Tiền Nhân từ bi ”.

    Ngày 28 tháng 11, Viện Trưởng lâm đàn, Hàn Tướng Quân quỳ ở một bên, cuối cùng thông qua Viện Trưởng từ bi làm chủ, Lão Tiền Nhân cho phép, Trương Tiền Nhân làm dẫn sư, Khâu Điểm Truyền Sư làm bảo sư, Lão Tiền Nhân đích thân điểm đạo, Hàn Tướng Quân cuối cùng đã cầu đắc đại đạo trở về Lí Thiên.

    Như Hàn Tướng Quân công cao cái thế, lẫy lừng một thời, muốn cầu đắc được chơn đạo vẫn phải quỳ ở núi Nam Bình 34 ngày cầu xin thầy Tế Công từ bi, lại còn phải 3 lần lâm đàn, trước sau trải qua đủ thứ vất vả khốn khó mới đắc thụ một chỉ của Minh Sư, còn chúng ta dựa vào tài gì đức gì mà có thể dễ dàng đắc đạo như thế ? do vậy mà phải thật tốt trân trọng lấy, càng phải nỗ lực mà tu đạo, bàn đạo, chớ có đánh mất cơ hội khó được lần này. 

    0 nhận xét:

    Đăng nhận xét