Trong thuyết luân hồi của Phật Giáo, các kiếp liên tiếp
nối theo nhau như một chuỗi mắt xích dài vô tận. Kiếp
này là quả của kiếp trước và là nhân cho kiếp sau. Do đó
các kiếp sống có vô số mức khổ sướng khác nhau, và
không phải kiếp nào chúng sinh cũng là người cả. Có
nhiều loại chúng sinh trong vòng luân hồi, chúng sinh
loại này sau khi chết có thể biến thành chúng sinh loại
khác. Chẳng hạn thú biến thành người, người biến thành
thiên thần, v.v... và cũng có thể biến ngược lại. Tất cả
đều do nghiệp lực quyết định, nghĩa là do những việc
thiện hay ác mà chúng sinh ấy làm trong kiếp trước đó.
Chúng sinh không phải chỉ có trong trái đất này mà còn
ở trong hằng hà sa số hành tinh khác trong vũ trụ. Có
những hành tinh làm bằng những chất mà mắt con
người không thấy được dành cho những chúng sinh vô
hình đối với con mắt loài người. Có thể nói chúng sinh
bị luân hồi trong 6 nẻo, còn gọi là lục đạo luân hồi, tức
sáu cảnh giới, xếp theo mức độ từ sướng tới khổ như
sau:
1. THIÊN ĐẠO
(Nguyên nghĩa là có thân sáng láng) là cảnh giới của
những chúng sinh vô hình, phần nào tương tự như
những "thiên thần", có thân xác vi tế hơn con người,
sống trong những điều kiện dễ dàng hạnh phúc hơn, đời
sống cũng lâu dài hơn con người rất nhiều. Tuy nhiên,
về mặt trí tuệ, chư Thiên thường không hơn con người.
Họ sinh ra theo kiểu hóa sinh (nghĩa là bỗng nhiên xuất
hiện dưới hình thức một thiếu nữ hay một thanh niên,
không phải nhờ tới ai làm cha mẹ sinh mình ra cả). Chư
Thiên cũng có nhiều loại, nhiều đẳng cấp khác nhau
(dục giới, sắc giới, vô sắc giới, mỗi giới lại phân thành
nhiều cảnh Trời khác nhau), mức độ hạnh phúc và cách
thế sống hay tuổi thọ giữa các loại, các cấp cũng khác
nhau.
2. NHÂN ĐẠO
Cảnh giới của con người với những điều kiện sống khó
khăn hơn, trong đó hạnh phúc và đau khổ lẫn lộn. Ðây là
cảnh giới thuận lợi nhất để tu giải thoát nhờ có sự quân
bình tương đối giữa sướng và khổ. Vì thế, các vị Bồ Tát
thường chọn tái sinh vao cảnh giới này, do có nhiều
hoàn cảnh thuận lợi để phục vụ và thực hành những
pháp môn cần thiết để thành Phật. Kiếp cuối cùng của
Bồ Tát luôn luôn ở cảnh người.
3. ATULA ĐẠO
Cảnh giới này giống như cảnh giới thấp nhất của Chư
Thiên (dục giới), nghĩa là thuộc thế giới vô hình, nhưng
có rất nhiều đau khổ tinh thần. Ðó là nơi tập trung
những chúng sinh nhiều tham vọng, ham quyền lực,
kiêu căng, ghen tị, hay có chiến tranh..., tuy điều kiện vật
chất dễ dàng hơn con người. Nhiều học giả xếp cảnh
giới Atula ngay sau cảnh giới Thiên, rồi mới tới Nhân, vì
xác thân họ, điều kiện sống của họ gần với Chư Thiên
hơn. Cảnh giới này khiến ta liên tưởng tới cảnh giới của
Satan là thiên thần sa ngã, còn cảnh giới của Chư Thiên
như cảnh giới của các thiên thần tốt lành.
4. NGÃ QUỶ ĐẠO
(Nghĩa là quỉ đói): Cảnh giới của những chúng sinh tham
lam vật chất (tiền bạc, của cải, lạc thú thể chất như ăn
uống, nhục dục...) lúc nào cũng khao khát những thứ đó
nhưng không bao giờ được thỏa mãn, khiến họ luôn
luôn khổ đau. Ðời sống của họ dài và đau khổ. Thân xác
của họ vi tế hơn con người, nên mắt thương của con
người không thấy được. Cảnh giới của họ không phải là
một tinh tú riêng biệt. Họ thường sống trong rừng bụi, ở
những nơi dơ bẩn trên mặt đất, và sinh sống bằng
những thực phẩm thừa thãi hoặc thiu thối của con
người hay của những động vật khác.
5. SÚC SINH ĐẠO
Cảnh giới của loài vật mà chúng ta vẫn thấy: thú vật,
chim chóc, cá... là những chúng sinh ít hiểu biết, kém ý
thức, có đời sống rất thấp kém, hầu như không có đời
sống tinh thần. Chúng thường xuyên phải sống trong sợ
hãi (bị thú khác hoặc bị người giết ăn thịt, hoặc bị thúc
đẩy đi giết các thú khác), nỗi sợ chung là sợ đói. Gia súc
thì bị con người nuôi để ăn thịt, để giải trí. May mắn cho
chúng ở chỗ đời sống chúng ngắn ngủi và ý thức trí tuệ
chúng kém cỏi nên những đau khổ của chúng qua mau
và hời hợt, không sâu sắc. Nhưng không may ở chỗ
chúng khó có cơ hội để làm công đức, không đủ trí tuệ
để tu tập thoát khỏi kiếp lầm than đó.
6. ÐỊA NGỤC ĐẠO
Cảnh giới của những chúng sinh độc ác, hận thù, ích kỷ,
ghen ghét, hay giận dữ, thích gây đau khổ cho người
khác. Họ phải chịu những cực hình rất đau đớn, khắc
nghiệt để trả quả cho những hành vi bất thiện đã tạo
trong quá khứ. Ðời sống trong các địa ngục dài hay
ngắn tùy theo từng địa ngục khác nhau. Mỗi địa ngục có
một sắc thái riêng, với những cực hình khác nhau tương
xứng với tội ác đã phạm. Sau thời gian có thể rất lâu tại
đây để đền tội, tội nhân có thể ra khỏi để làm lại cuộc
đời mới, trong một kiếp sống mới tốt đẹp hơn, để rồi về
sau có thể trở thành Phật. Chính Ðức Phật, trong một vài
tiền kiếp, đã từng sa địa ngục vì đã phạm những trọng tội.
Tất cả các cảnh giới trên đều bị chi phối bởi luật Vô
Thường, nên không có ai ở mãi trong một cảnh giới nào
cả. Không có một điều phúc đức nào vô cùng để đáng
thưởng vô thời hạn trong một cảnh giới hạnh phúc nào
đó. Và không có một tội ác nào lớn tới mức vô cùng để
đáng bị phạt đời đời tại một cảnh giới đau khổ nào đó.
Do đó, chúng sinh cứ trôi lăn trong lục đạo mãi, hết ở
cảnh khổ lại qua cảnh sướng, hết cảnh sướng lại rơi lại
vào cảnh khổ. Cho tới một lúc nào đó, chúng sinh giác
ngộ được con đường giải thoát, và quyết tâm tu tập
thành Phật, thì mới ra khỏi cái vòng luân hồi luẩn đó.
Trong lục đạo, chỉ có hai cảnh giới được coi là sướng, là
cảnh giới Thiên và Nhân, nhưng cảnh giới Nhân là quí
hơn cả. Xét về mặt hạnh phúc thì cảnh giới Thiên có
nhiều điều kiện thuận lợi hơn, nhưng chính vì vậy mà họ
bị ru ngủ không muốn tìm sự giải thoát thật sự, để rồi
khi họ hưởng hết phúc lành, họ lại rơi vào một cảnh giới
khổ hơn. Các Atula thì tâm trí bị thu hút vào việc tranh
cãi hơn thua, các ngạ quỉ thì quan tâm đến những thèm
khát không được thỏa mãn, súc sinh thì u mê chỉ nghĩ
đến thức ăn và thỏa mãn tính dục, còn ở địa ngục thì
mọi chúng sinh bị hành khổ đủ cách nên không còn đầu
óc đâu mà nghĩ đến đạo giải thoát. Chỉ có con người có sướng có khổ một cách tương đối quân bình, nên có
nhiều điều kiện thuận lợi để phát tâm đi tìm con đường
giải thoát. Chỉ có con người là có nhiều tự do quyết định
hơn cả, có đầu óc sáng suốt hơn cả để có thể đạt tới trí
tuệ giải thoát. Trong lục đạo, chỉ có con người có nhiều
cơ may, nhiều khả năng để thành Phật nhất. Do đó, theo
Ðức Phật, được làm người là cả một cơ hội quí báu
không nên uổng phí. Kinh Duy-Ma-Cật, Phẩm 8 (Phật
Ðạo) nói rõ điều đó.
Theo Phật Giáo, chúng sinh không phải chỉ có ở trái đất
này, mà còn ở trong hằng hà sa số các hành tinh khác.
Chúng sinh nhiều vô cùng tận, và hệ thống tinh tú để
chúng sinh ở cũng vô cùng tận. Trong Kinh Tăng-Nhất
A-Hàm, Phật nói: "Không thể đi đến mức cùng tận của
thế gian". Về vấn đề chúng sinh, khoa học ngày nay chưa thể kiểm chứng được những điều Phật dạy. Nhưng
về hệ thống tinh tú, thì các nhà khoa học thời nay đã
nhìn nhận: Không thể xác định được vũ trụ đến đâu là
cùng tận. Số tinh tú mà các nhà thiên văn học khám phá
được đã nhiều hơn gấp bội dân số thế giới hiện nay. Vì
thế, giữa muôn tỉ tinh tú, có vô số tinh tú lớn gấp triệu
lần trái đất này, mà tin rằng chỉ trái đất mới có sự sống
hay có loài người, thì quả là tin một điều hết sức mạo
hiểm, xác xuất đúng hết sức nhỏ bé. Do đó, điều Phật
nói rằng có chúng sinh ngoài trái đất này có rất nhiều
khả năng đúng. Riêng về thiên văn học, quan niệm của
Ðức Phật đã đi trước thế giới cả hàng ngàn năm, thậm
chí 2000 năm.
Các chúng sinh trong cảnh giới này có thể đầu thai sang
cảnh giới khác, trong tinh tú này có thể đầu thai sang
tinh tú khác, tùy theo sự đòi hỏi của nghiệp lực khiến ta
phải đầu thai vào nơi nào thích hợp nhất với ta tại thời
điểm đó. Chẳng hạn như ngay giây phút này, một chúng
sinh ở trái đất này vừa chết và cần có chỗ đầu thai thích
hợp với nghiệp của mình. Nhưng vào giây phút đó, tại
trái đất này không có một nơi nào để đầu thai phù hợp
cả: những nơi có thể đầu thai được (do noãn và tinh gặp
nhau), thì cha mẹ hay hoàn cảnh không phù hợp, còn
những cha mẹ phù hợp thì lại không thụ thai vào thời
điểm đó. Mà trong muôn tinh tú kia, thế nào chả có nơi
thích hợp vào thời điểm đó? Ðương nhiên nơi nào gần
nhất vẫn là ưu tiên. Vì thế, việc chuyển kiếp sang tinh tú
khác thường hay xảy ra.
Do đó, có những trường hợp chúng sinh ở tinh tú này
càng ngày càng tăng lên, đang khi ở một tinh tú khác
càng ngày càng giảm đi. Ðiều đó giải thích tại sao dân số
địa cầu càng ngày càng tăng lên: cách đây mấy ngàn
năm dân số thế giới chỉ tính bằng triệu, nhưng hiện nay
phải tính bằng hàng tỉ, đang khi theo giáo thuyết của
Phật, con số chúng sinh không hề tăng lên hay giảm đi.
Vả lại, chúng sinh không phải chỉ là loài người, mà còn
là nhiều loài khác trong lục đạo có thể chuyển đổi cho
nhau. Hơn nữa, theo Phật tổ thì số chúng sinh nhiều vô
tận: một con vi trùng cũng là một chúng sinh, mà một
người trí tuệ cao cả như Phật tổ cũng là một chúng sinh.
Theo Phật Giáo thuần túy, hiện tượng tử-sinh, tức chết
rồi đi đầu thai sang kiếp khác, xẩy ra ngay tức khắc, bất
không gian được thâu tức khắc vào bộ máy thu thanh.
Luồng nghiệp lực trực tiếp chuyển từ chết sang tái sinh
ngay tức khắc, không trải qua một trạng thái chuyển tiếp
nào cả. Nghĩa là không có chuyện linh hồn người chết
phải tạm trú ở một nơi nào đó chờ đến khi tìm được một
nơi nào thích hợp mới đi đầu thai. Như vậy là chết lúc
nào thì đầu thai lúc đó, và luôn luôn có một nơi thích
hợp trong vũ trụ để đầu thai. Vì vũ trụ là một bộ máy rất
hòa hợp, mọi chuyện tự nhiên dù có vẻ ngẫu nhiên
nhưng vẫn luôn luôn ăn khớp với nhau. Như vậy, theo
Phật Giáo nguyên thủy, nếu hai người cùng chết một
lượt thì sẽ đầu thai cùng một lúc ở hai nơi khác nhau,
cho dù một nơi rất gần còn nơi kia rất xa. Tương tự như
hai người ở cùng một chỗ có thể nghĩ đến hai nơi ấy
cùng một lúc, không vì nơi này xa mà phải nghĩ đến sau
nơi kia.
Tuy nhiên, về sau, nhiều thuyết cho rằng chỉ có những
chúng sinh có nghiệp lực mạnh mới tái sinh ngay tức
khắc, nghĩa là những người đã phạm nhiều tội ác thì tâm
thức của họ sẽ bị những cảnh giới xấu thu hút ngay, hay
những người đã làm rất nhiều việc thiện sẽ được những
cảnh giới lành rút về ngay. Còn những người thuộc loại
trung bình, không xấu lắm và cũng không tốt lắm, thì
tâm thức họ có thể ở trong cõi trung ấm, và có thể dùng
tư tưởng để tạo cho mình một xác thân bằng thanh khí
của cõi trung ấm (cõi đó cũng chiếm cùng một không
gian với cõi dương gian, ví như nước và miếng bọt biển
có thể cùng chiếm một không gian và lồng vào nhau).
Tâm thức ấy chỉ ở trong cõi trung ấm khoảng 49 ngày.
Trong thời gian này, tâm thức vẫn có thể thay đổi tư
tưởng (chẳng hạn quyết tâm trở nên tốt đẹp hơn, hay bị
lôi cuốn vào những sân hận mới...) để có thể đầu thai
vào những hoàn cảnh tốt đẹp hơn hoặc xấu xa hơn. Tối
đa là 49 ngày, tâm thức phải đi đầu thai. Vì thế, trong
vòng 49 ngày sau khi một người chết, thân nhân của
người ấy có thể làm lễ cầu siêu cho người ấy.
Tất cả chúng ta hiện giờ có mặt ở đây không phải chỉ
một lần, mà là vô số lần rồi. Con người bỏ thân này chưa
phải là hết, mà còn lang thang không biết đến bao giờ. Vì
vậy nhà Phật thường dùng từ “lang thang trong kiếp
luân hồi”, cứ đi mãi không biết dừng nơi đâu? Đức Phật
thấy được những nẻo đường của chúng sanh đến và đi
nên Ngài mới nói “Thuyết luân hồi”. Luân hồi là gì? Luân
là bánh xe, hồi là lăn tròn. Luân hồi đi đâu? Không ngoài
ba đường ác và ba đường lành, cứ lên xuống quay tròn
như vậy hoài, gọi là luân hồi.
Nếu người làm điều tốt khi chết sẽ đi các đường trên.
Hưởng hết phước rồi thì tuột xuống trở lại, còn kẻ làm
xấu thì đọa vào các đường dưới, đền trả hết nghiệp mới
được trồi lên. Lên xuống, lên xuống không ra khỏi vòng
lục đạo nên gọi là bánh xe luân hồi. Đó là nói luân hồi
0 nhận xét:
Đăng nhận xét