I. Chúc mừng bạn đắc đạo rồi !
“Chúc mừng! Chúc mừng! Chúc mừng bạn đắc đạo
rồi!”Niềm vui này rốt cuộc từ đâu đến? Và chúng ta đắc
được “đạo” là gì? Đắc được đạo lại là việc gì to tát vậy? Vì
sao mọi người lại chúc mừng chúng ta?
“Đạo” là gì vậy? Thỉ Tổ của Đạo gia là Lão Tử, trong
Thanh Tĩnh Kinh có nói: “Đại Đạo vô hình, sanh dục Thiên
địa; Đại Đạo vô tình, vận hành nhật nguyệt; Đại Đạo vô
danh, trưởng dưỡng vạn vật.” Nói đơn giản hơn, “Đạo” là
Chủ Tể và căn nguyên sanh Thiên sanh Địa sanh vạn sự
vạn vật trong vũ trụ này, cũng là chân lý duy nhất trong
giữa vũ trụ. Tại trên thân người, chính là bộ não nhân loại
chúng ta có thể suy nghĩ, là một điểm linh căn đó mà thân
này có thể hoạt động, cũng là bổn lai diện mục của chúng
ta đến từ Thượng Thiên, bởi vậy “cầu Đạo” chẳng qua
dùng một câu nói tóm tắt, đó chính là “tìm lại tự tánh căn
nguyên” đã đánh mất từ lâu.
Từ xưa đến nay, Thánh nhân các giáo và đại đức cao
tăng, các vị đó đã nhiều đời khổ tu khổ luyện, chính vì
muốn tìm được bổn lai diện mục này, để cầu có thể thoát ly
bể khổ nhân sanh, vượt khỏi sanh tử luân hồi, siêu sanh
liễu tử, đạt bổn hoàn nguyên, trở về cố hương của linh tánh.
Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, Châu Công, Khổng
Tử, Mạnh Tử, đời đời tương truyền Thánh Đạo chính là
truyền cái “đó”. Nhiên Đăng Cổ Phật thụ kí cho Thích Ca
Mâu Ni Phật, Thích Ca Phật Tổ lại truyền cho Đại Ca Diếp
Tôn Giả cái “chánh pháp nhãn tàng”, là đời Tổ thứ nhất
của nhà Phật, cũng như Đạt Ma Tổ Sư truyền cho Thần
Quang Tổ Sư vô tự tâm pháp, cũng là cái “đó”. Quan Thế
Âm Bồ Tát khổ tu đắc Đạo cũng là cái “đó”, vị tiên tri Đức
John nói về Thánh hỏa trong lễ rửa tội, cũng là nói về việc
cầu đạo, việc này chính là Thánh sự lớn nhất dưới gầm
Trời.
Song, từ cổ xưa thiên cơ mật bảo này là bất khinh
truyền. Khi xưa phần nhiều là đơn truyền độc thụ. Trong
thời thượng cổ, Đạo tại Quân vương, đến thời đại Khổng
Tử ở Trung Quốc, Thích Ca ở Ấn Độ, là Đạo giáng Sư Nho,
vả lại cần phải “tu trước đắc sau”, phải khổ tu khổ luyện
đến một trình độ nào, được công quả viên mãn, Thượng
Thiên mới âm thầm cử Tiên Phật điểm hóa truyền Đạo cho,
nhưng một trăm người cũng khó một người thành. Hôm
nay mọi người có thể đắc Đạo dễ dàng như vậy, thực ra là
tại vì Thiên thời Thiên vận đã đến tam kì mạt kiếp là lúc
thu thúc. Vì lòng người bại hoại mà dẫn đến tai họa chưa
từng có trên thế giới, vận mệnh của nhân loại sắp gặp phải
đại nạn thiên cổ, nhưng lòng từ bi của chư Thiên Tiên Phật
Bồ Tát không nhẫn tâm thấy toàn bộ chúng sanh gặp nạn,
bèn khấu đầu Thượng Thiên giáng xuống Đại Đạo tôn quý
này, do không thể đợi chúng sanh khổ tu khổ luyện để đi
đến “đắc đạo”, mới có nhân duyên đặc thù thế này, đại khai
phổ độ, bất luận nam nữ già trẻ, kiếp này có tu không tu,
chỉ cần là người có duyên đều có thể “đắc đạo trước, tu
hành sau”. Sau khi đắc đạo, y theo Đạo mà hành, noi
gương Thánh Hiền, tế thế cứu người, tích tụ thiện niệm,
cứu vãn ác nghiệp của nhân loại để được chuyển hóa, cùng
nhau sáng tạo một Tịnh Thổ nhân gian, đưa đến Thế Giới
Đại Đồng, đây là một kì duyên may mắn xưa nay chưa
từng gặp, chúng ta nhất thiết không thể xem nhẹ phần đắc
đạo nhân duyên thù thắng này.
Chúng ta là một kẻ phàm phu, kiếp này vô công vô
đức, nay gặp được một kì duyên hằng cổ chưa hề có là đắc
được “Thánh truyền Chân Đạo” này, vốn chỉ có Thánh
nhân đời đời tương truyền, chẳng lẽ không đáng chúc
mừng sao?
Ngoài ra, cầu đạo chẳng phải là muốn người ta bỏ đi
tín ngưỡng vốn có để gia nhập một tôn giáo mới nào, mà là
mượn sự thông qua cầu đạo để ấn chứng “ngũ giáo đồng
nguyên”, “vạn giáo nhất lý”, tất cả nguồn gốc tín ngưỡng
đều là “Đạo”; mà chúng sanh cũng là “Đạo” sanh dục
trưởng dưỡng mà đến. “Đạo” tức là một loại hình thức linh
tánh ở trên thân người, cầu đạo chính là tìm được nơi trú
ngụ của linh tánh, tìm lại bổn lai diện mục mất đi đã lâu
của chính mình, có thể nhận định một điểm chân linh của mình, hiểu ra ý nghĩa và sứ mệnh sống làm người của
chúng ta, tự nhiên thấy cuộc sống của chúng ta có giá trị
hơn, mạng sống càng vẻ vang hơn.
II. Ý nghĩa của tam bảo:
Song, “Đạo” vốn dĩ là vô hình vô tướng mà sinh ra vũ
trụ vạn vật, một điểm linh quang trên thân chúng ta, đó là
cội nguồn bất sanh bất diệt trong Thiên địa, người phàm
mắt thịt phải thế nào để tìm tòi diệu đạo vô hình này? Hãy
tham khảo tình trạng lúc Thánh hiền Tiên Phật từng đời
truyền đạo đắc đạo, bèn biết được có đạo tất có “pháp”, Bề
Trên muốn giáng đạo cho chúng sanh hữu duyên, cũng cần
phải thông qua dược pháp trong vô hình vô tướng, mới có
thể nhằm vào trị bệnh khổ não vô tận của chúng sanh. Mà
hôm nay chúng ta đắc đạo, là Thánh Thánh tương truyền
tâm pháp ngàn xưa đến nay không dễ dàng tiết lộ, về mặt
hữu hình mà nói: Lúc chúng ta cầu đạo, Điểm Truyền Sư
đại biểu Thiên mệnh Minh Sư truyền thụ “Tam bảo” cho
chúng ta là Quan - Quyết - Ấn. Cũng chỉ có tam bảo này
mới có thể ấn chứng tái sanh của linh tánh chúng ta, có thể
làm cho lương tâm đã biến chất của nhân loại khôi phục
đạt tới bổn lai thanh tịnh huyền diệu, tìm được cảnh giới
tương thông với Trời, tiến mà làm cho một điểm linh căn
bổn tánh này, ở trong sinh mệnh vốn có trí năng lương
thiện được khai mở, nâng cao tầng giới sinh mệnh.
1. Bảo thứ nhất - Huyền Quan Khiếu:
Thông Thiên khiếu là cổng xuất nhập của linh tánh.
Đây là con đường “huyền” tương thông giữa người
với Bề Trên, là nơi cư trú của linh tánh trên thân người, là
tổng quản của tinh khí thần, là tổng chủ tể của ngũ quan
hình hài, chính là cổng cửa của linh tánh sanh đến chết đi,
đây là sự huyền bí lớn nhất giữa vũ trụ, là huyền cơ bất giải
của sinh mệnh, là đại linh căn của Thiên địa vạn vật giữa
người và Trời, chính là nhờ vào cửa khiếu tuyệt diệu này
mà tương thông trong từng động tĩnh, cảm ứng lẫn nhau. Vì sao gọi là “Huyền Quan Khiếu” vậy?
- “Huyền”: Là ý nói thông Thiên quán địa thật huyền
diệu; “Quan”: là ý nói thông đến con đường, thông đến cửa
nẻo; “Khiếu” là lổ nhỏ. Ba chữ này gộp lại là chỉ lối cửa
chánh của linh tánh, lúc sanh ra từ Trời mà đến, khi chết lại
trở về Trời.
Con người khi giáng sanh tại thế gian, vị chủ tể “Chân
chủ nhân” này của chúng ta - Linh Tánh - là từ Lý Thiên
thông qua lỗ nhỏ thần bí này mới tiến vào thân người. Chỉ
đáng tiếc nơi tiên thiên Chí Thiện này, lúc chúng ta lạc vào
hồng trần hậu thiên, sau đó sa vào thất tình lục dục, rồi bị
che lấp đi, làm cho sau khi trăm tuổi xác thân này hủy hoại,
linh tánh lại không thuận theo “con đường lúc đến” để trở
về nơi cần trở về, ngược lại là từ nơi “bàng môn tả đạo” rời
khỏi thể xác, đi vào trong sáu nẻo luân hồi. Từ đó trở đi,
linh tánh phải chịu ở trong thế giới sa bà này, với hình thái
bên ngoài không giống nhau, ở trong trào lưu sanh tử trôi nổi không ngừng. Cái gọi là “bàng môn tả đạo”, chính là chỉ nơi Huyền
Quan chánh môn sanh đến chết đi chưa được Minh Sư khai
mở, linh tánh của chúng ta thông qua ống dẫn khác rơi vào
trong sanh tử luân hồi: - Linh hồn người đó từ mắt đi ra, kiếp sau họ sẽ đầu
thai làm noãn sanh là loài cầm bay, như loài chim ưng,
chim yến… Đây là do lúc tại thế mắt ham nhìn hoa sắc quá
đáng gây nên. - Linh hồn người đó từ lỗ tai đi ra, thì đầu thai chuyển
kiếp làm thai sanh, có lực nghe rất thính, đó là loài súc sinh
như: chó, trâu, dê, heo… Đây là do lúc tại thế lỗ tai thích
nghe lời tà quá đáng. - Nếu linh hồn người đó từ lổ mũi đi ra, thì sẽ đầu thai
loài hóa sanh, khứu giác đặc biệt nhạy cảm như: kiến, gián,
ruồi, muỗi… Đây là vì mũi ngửi hương vị đặc biệt quá
đáng, kiếm đồng tiền ô uế hại đời mà gây nên. - Nếu linh tánh người đó từ miệng đi ra, thì kiếp sau
chuyển thành loài thấp sanh, loài thủy tộc như: cá, tôm, …
Đây là vì người đó lúc tại thế thích nói lời thị phi hại người
danh tiết mà gây nên. - Nếu linh tánh người đó từ lỗ rún đi ra, kiếp sau tuy
có thể đầu thai làm người, nhưng phải chịu vận mệnh
nghèo khổ, đây là do khi tại thế lỗi nhiều công ít, cho nên chuyển kiếp phải chịu quả báo khổ cực nghèo khó. - Nếu linh tánh người đó từ chỗ gọi là Nê hoàn cung
(mỏ ác) rời khỏi thân người, kiếp sau sẽ chuyển sanh vào
gia đình phú quý như công hầu, tể tướng, thậm chí thăng
Thiên thành Khí Thiên Thần Tiên được hưởng hương quả
cung phụng của nhân gian, vì lúc tại thế họ làm công nhiều
lỗi ít, cho nên chuyển kiếp được hưởng phúc báo.
Nhưng mà, bất luận linh tánh từ đường lối nào đi ra, đều vẫn còn trong sanh tử luân hồi, đến cả Thần Tiên cũng
như vậy, được người cung phụng, một khi thời gian đã đến,
vẫn phải đầu thai trở lại làm người, lại lần nữa rơi vào
trong hồng trần, tiếp nhận quay cuồng của vận mạng,
không cách nào làm chủ bản thân, cứ như thế không cách
nào liễu thoát sanh tử, duy chỉ có mở khai chánh lộ duy
nhất này, mới thật sự vượt khỏi vực thẳm khổ hải nhân
sanh, siêu Khí nhập Lý trở về nguyên lai cố hương của linh
tánh.
Cho nên, hễ là những người đắc đạo, lúc họ quy Thiên,
nét mặt như đang sống, thân thể tay chân mềm mại tự
nhiên, nét mặt mỉm cười, thậm chí đầy phòng hương thơm,
đây đủ để chứng minh linh tánh không còn từ lục đạo sáu
ngả bàng môn đi ra, mà là đã ứng chứng đăng thế giới Cực
Lạc, trong thời cổ xưa chỉ người tu luyện có thành tựu công
đức viên mãn cực lớn, mới có thể thấy điềm tốt lành này là
tướng mạo đoan trang “gân cốt dịu lại như lông vũ”.Nhưng hôm nay người có duyên cầu đạo, đắc thụ Minh Sư
nhất chỉ điểm, chỉ cần tam bảo khắc ghi trong lòng, lúc còn
sống nên hành thiện tích đức nhiều, sau khi trăm tuổi, được
nương nhờ Phật lực mà siêu sanh Lý Thiên tiếp tục tu hành,
ở trong đạo trường Thiên Đạo này, đã có vô số đạo thân
đắc đạo quy không, thân xác cũng có thể mềm mại, đều là
cái ấn chứng tốt nhất, ngoài việc lấy thân người sau khi
quy không để ấn chứng nhất chỉ điểm này là chân thật bất
hư, Huyền Quan nhất khiếu cũng không phải do người đời
nay đề xuất ra “cách nhìn” này, mà là kinh điển các giáo có
đủ chân thật để ấn chứng. Nhận thức kinh điển các giáo để
ấn chứng Minh Sư nhất chỉ điểm của Thiên Đạo, đối với
đạo thân đã cầu đạo là tương đối quan trọng, đây là lòng tin
cơ sở để bước vào đạo, học đạo tu đạo cho sau này. Tại đây
đặc biệt phân tích và nói rõ: - Chứng minh của nhà Phật:
Trong kinh điển nhà Phật là có tương đối nhiều để ấn
chứng Huyền Quan nhất khiếu là cổng cửa quan trọng nhất
của nhân sanh, Phật nói: “Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu, nhân nhân hữu cá Linh Sơn
tháp, hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu”, đây chính là nói
cho người đời sau biết, chúng sanh đều có Phật tánh, tỏ ý
thêm là Phật cư trụ tại Linh Sơn Tháp dưới tâm đầu của
mỗi một người, Phật tại tự tâm, ngoài thân không có Phật
để cầu, cái gọi là “tháp hạ tu”, tức là chỉ chỗ ẩn tàng huyền diệu trong đó.
“Chỉ Nguyệt Lục” ghi lại: Thế Tôn xưa kia tại hội
Linh Sơn dùng “niêm hoa vi tiếu” là ám truyền chân đạo
cho đại đệ tử Ca Diếp Tôn Giả, lúc đó nói “Ngô hữu chánh
pháp nhãn tàng, niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, vi
diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, phó
chúc MaHaCaDiếp”. “Chánh pháp nhãn tàng” này tại nơi
đâu? Là mắt phải hay mắt trái? Đương nhiên đều không
phải! Nơi Minh Sư nhất chỉ, đó là mắt trí tuệ thông Thiên. Trong đó có ẩn tàng chánh pháp, là Phật Phật duy truyền
bổn thể, chánh pháp này là không dùng văn tự lời nói biểu
đạt, hơn nữa, là ngoài chánh thống giáo môn, mới âm thầm
dặn dò truyền cho thiên cơ bí bảo, đây không phải là sự ấn
chứng quá rõ ràng hay sao? Nhưng nếu không cầu đạo,
chưa được Minh Sư nhất chỉ điểm, dù cho bạn thông minh
hơn Nhan Hồi, đọc nát 12 bộ tam tạng kinh điển, suy nghĩ
vỡ óc cũng không thể ngộ ra.
Ngoài ra, “Tử trúc lâm trung quán tự tại, song lâm thụ
hạ kiến Như Lai”, “tử trúc lâm” và “song lâm thụ” đều là
đang hình dung vị trí liên quan chỗ Huyền Quan chúng ta,
chỉ có tại nơi đó mới có thể thấy được Quan Âm tự tại
trong bổn tánh, mới có thể thấy được chân chánh bổn lai
diện mục như như bất động. “Như Lai”, cũng không phải là
một danh xưng có hình tướng của Phật Bồ Tát, mà là Phật
Tánh tự tại của mỗi một người, là “như kì bổn lai” đấy,“Tự Tại” và “Như Lai” này, đều ở chỗ nơi Minh Sư nhất
chỉ điểm.
Trong “Đạt Ma Bửu Truyện”, cũng là Đạt Ma ví dụ
chánh pháp nhãn tàng là Nhất Khiếu hoặc Vô Phùng Tháp.
Thần Quang hỏi: “Nhị lục thời trung, quy y hà xứ, phúng
tụng hà kinh?”, Đạt Ma rằng: “Quy y Vô Phùng Tháp, mặc
niệm Vô Tự Chân Kinh”; Thần Quang rằng: “Vô Phùng
Tháp ở nơi nào?” Tổ rằng: “Chân bảo của chính mình tại
ngay trước mắt, hà tất khéo tìm bên ngoài, bên trong có Xá
Lợi Tử, không phân ngày đêm phóng ra hào quang”. Cái
gọi là Nhất Khiếu và Vô Phùng Tháp, chính là chỉ Huyền
Quan Khiếu. - Sự chứng minh của nhà Nho:
Trên Kinh Dịch nói: “Hoàng Trung thông lý, chánh vị
cư thể, Thiên quân thái nhiên, bách thể tòng lệnh, mỹ tại kì
trung hỉ”, ‘Hoàng Trung chánh vị’ chính là chỉ nơi Thánh
địa trung nhất chánh nhất trên thân chúng ta, chỉ có nơi đó
là tuyệt đối vô nhị, cũng chính là Huyền Quan diệu khiếu
của chúng ta.
Khổng Tử nói: “Thùy năng xuất bất do hộ, hà mạc do
tư đạo dã”, lại nói: “Chiêu văn đạo tịch tử khả hỉ”, chữ “hộ”
( 戶 ) đây là một cánh cửa, cũng chính là cửa duy nhất, đắc
rồi, thì có thể thoát khỏi cái khổ luân hồi, nếu như chữ “hộ”
( 戶 ) phía trên thiếu một chấm, sẽ trở thành chữ “thi” (thi
hài) ( 尸 ), là lưu lãng trong sanh tử luân hồi. Cho nên Khổng Tử mới nói, một khi được nghe Đại Đạo sanh tử
này, cho dù buổi sáng đắc đạo, buổi tối chết đi, cũng không
lấy làm tiếc!
Trong Đại Học nói: “Thập mục sở thị, thập thủ sở chỉ, kì nghiêm hồ”, chữ “thập” này ( 十 ) không phải là nói có
thập con mắt, thập ngón tay, chữ thập ( 十 ) này ám chỉ nơi
chữ thập trên gương mặt chúng ta, tức Huyền Quan Khiếu, “mục sở thị” chính là chỗ lưỡng mục hợp chiếu, “thủ sở chỉ”
chính là nơi chỉ điểm của Minh Sư đấy. Đây là Thánh nhân
Tăng Tử sau khi đắc được chân truyền của Khổng Tử, lần
nữa đem thiên cơ này chứng minh một điều ám chỉ trong
kinh điển.
- Sự chứng minh của Đạo gia:
Đạo Đức Kinh nói: “Cốc Thần bất tử gọi là Huyền
Tẫn, cửa của Huyền Tẫn, gọi là gốc của Thiên địa, miên
miên nhược tồn, dụng tri bất cần”. “Cốc Thần”, đó là
nguyên thần linh tánh của chúng ta; “bất tử” tức là bất sanh
bất diệt, “Cốc Thần bất tử” chính là chỉ nguyên thần bổn
tánh chúng ta thọ Minh Sư nhất chỉ điểm, vĩnh cửu tồn tại,
tử mà bất vong, nơi đó là cánh cửa sanh tử của linh tánh ra
vào, là tổng căn nguyên của Thiên Địa vạn vật, linh tánh sẽ
cư trụ trong “Cốc” của thân người. Cái “Cốc” này tại đâu
đây? Trải qua Minh Sư nhất chỉ sẽ sáng tỏ minh bạch ngay.
Đạo gia cũng nói: “Nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, Lưỡng
nhân thủ nhất thổ, Giải khai kì trung ý, Biện thị Tây Thiên Tổ”, “nhất, nhị, tam, tứ, ngũ” này là đại biểu ngũ quan của
con người; mắt, tai, mũi, miệng, cộng thêm Huyền Quan, là
nơi Minh Sư nhất chỉ, có thể trong nhị lục thời thủ trú nơi
Chí Thiện Bửu Địa, là “Trung Ương Mậu Kỉ Thổ”, sẽ thể
hội được nơi đó có trú ngụ một Chân Nhân, chính là Tây
Thiên Đại Phật Tổ, cũng chính là bổn tâm bổn tánh của
chính mình.
Trong Thánh Kinh Cựu Ước: “Chúa Thượng Thiên
Chúa dùng bụi trên mặt đất để hình thành nên con người,
trong lỗ mũi người đó thổi vào một luồng sức sống, thì đã
thành một sinh vật có linh” (Sáng Thế Kỉ 2 - 7), một luồng
sinh khí này chính là linh khí của con người. Thượng Đế
tạo người đem luồng sinh khí này thổi vào trong lỗ mũi,
cũng đang gợi ý rõ nơi Minh Sư nhất chỉ. Tại vì một điểm
này Giêsu gọi là linh hồn, ẩn tàng trong Thập Tự Giá của
bản thân ta, trở thành người sống có linh tánh. Vì sao luồng
sinh khí này phải thổi từ lổ mũi vậy? Tại vì từ xưa đến nay, Huyền Quan nhất khiếu này không thể nói rõ ra, chỉ có thể
nói đại khái gần đó, ví như tượng Phật trên trán đều có một
chấm son giống như Phật Tổ, đó là Thần Tánh của Thượng
Đế, linh tánh của chúng ta, là luồng sinh khí của chúng ta.
Giê-su trong Thánh Kinh “Mã Thái Phúc Âm”
chương thứ 16 đoạn 24 nói “Phàm có muốn theo Ta, thì
phải xả kỉ, vác lên Thập Tự Giá của chính mình để theo Ta”. Cái Thập Tự Giá của mình, là loại Thập Tự Giá vàng
bạc đồng sắt? Đương nhiên đều không phải! Mà là Thập
Tự Giá vô hình của bản thân, chính là tại nơi Minh Sư nhất
chỉ. Giê-su cũng nói: “Các con muốn vào cửa hẹp, vì dẫn
đến diệt vong, là cánh cửa rộng, con đường lớn, người đi
vào cũng nhiều; dẫn đến vĩnh sanh là cánh cửa hẹp, là con
đường nhỏ, người tìm đến cũng ít” (“Mã Thái Phúc Âm”
chương thứ 8 đoạn 13), ở đây Giêsu chỉ cánh cửa hẹp chính
là Huyền Quan sanh tử khiếu, nơi đó có một lỗ rất nhỏ, sau
khi trăm tuổi, linh tánh của người cần phải từ nơi đó đi ra, mới có thể bước lên con đường vĩnh sanh; bàng môn tả đạo
là rất rộng lớn (mắt, tai, mũi, miệng), sau khi trăm tuổi từ
lổ khiếu đó rời khỏi, thì chuyển vào con đường tứ sanh lục
đạo luân hồi đi rồi.
Ngoài ra, Giêsu sau cùng bị đóng và tử trên Thập Tự
Giá, cũng là đang gợi ý con đường chúng ta trở về Trời,
chính là phải từ Thập Tự Giá trở về. Chúa nói: “Nếu ai
nguyện đi theo Ta, nên bỏ đi chính mình, ngày ngày vác
Thập Tự Giá của chính mình đi theo Ta”. Cái Thập Tự Giá
này là Thập Tự Giá vô hình, tuyệt đối không phải Thập Tự
giá hữu hình đeo ở trước ngực, vậy thì trên thân chúng ta
nơi nào có Thập Tự Giá đây? Trong lúc Giêsu bị đóng trên
Thập Tự Giá, bên phải bên trái không nhiều không ít cũng
đóng một cái Thập Tự Giá, trên đó đóng hai kẻ cướp, đây chẳng phải rất rõ ràng đang ám thị nơi Huyền Quan của
chúng ta sao?
- Sự chứng minh của Hồi Giáo:
Trên Kinh Khả Lan, mỗi một câu kinh văn mở đầu
đều viết: “Phụng đại nhân đại từ Chân Chủ chi danh, A
Lập Phủ, lưỡng mục, mật mục”, “A Lập Phủ” là ý nghĩ của
Chân Thần mật mục, là chỗ giữa lưỡng mục, cũng ấn
chứng Minh Sư nhất chỉ Huyền Quan Khiếu là chân thật
bất hư. Kinh kệ khác cũng có nhiều ám chỉ, ví dụ: “Điểm
khai Huyền Quan Khiếu, Diêm Vương giật cả mình, Địa
phủ rút tên hiệu, Thiên bảng được ghi danh”; “Đọc nát
thiên kinh vạn điển, không bằng Minh Sư nhất điểm”; “Trồng dưa vẫn được dưa, trồng đậu vẫn được đậu, đọc
nát Kim Cang Kinh, niệm triệt Đại Bi Chú, vi thụ Minh Sư
chỉ, vĩnh tại luân hồi thụ”; “Điểm phá trí tuệ Thông Thiên
Nhãn, thiên kinh vạn điển khoát nhiên thông”; “Nhất chỉ
năng siêu tam giới ngoại, nhất điểm năng thoát Thập Diêm
La”, chính là đang ấn chứng Minh Sư nhất chỉ điểm, sự thù
thắng và chân thật của điểm khai Huyền Quan Khiếu.
- Sự chứng minh của khoa học:
Ngoài ra, trên khoa học sau thời gian dài tiến hành
nghiên cứu, rốt cuộc phát hiện trong đại não của thân người,
có một lực lượng không nhìn thấy đang chủ đạo cho đại não vận hành, họ rất không bằng lòng thừa nhận cái không
chứng cứ này, luận về điểm siêu hình này, nhưng lại không
thể không thừa nhận, đành phải gọi đó là “tinh thần”. Giới
y học đều biết được mạng sống của con người hoạt động, là
nhờ vào sự dẫn truyền của mạch thần kinh xung đến đại
não chỉ huy, nhưng là lực lượng gì đang chủ tể cho đại não
có công năng này đây? Là một thứ họ gọi là lực lượng của
“tinh thần”. Nhưng cái “tinh thần” này lại ẩn tàng ở đâu đây? Thế
kỉ thứ 16 ở nước Pháp, nhà đại triết học Dicker tìm được
trên thân người duy nhất tồn tại đơn độc cái tuyến thể - “Tùng quả thể” (thân người ngoài tuyến thể đó, còn lại
toàn là phân bố thành đôi), họ nói: “Trung ương của đại
não có tùng quả thể, nơi đó mới là chỗ của tinh thần”. Hiện
nay, y học gọi vị trí của “tùng quả thể”, gọi là bộ hạ của
khưu não, cũng phát hiện bộ phận này là bộ phận quan
trọng nhất của đại não, thậm chí gọi là “sinh mệnh trung
tâm”, toàn thân cơ quan con người với “nó” có quan hệ mật
thiết không thể tách rời. Nhưng nhà khoa học cũng chỉ có
thể tiến hành tới đây thôi, đối với “tùng quả thể” vận hành
như thế nào, thậm chí “nó” đối với toàn bộ mạng sống
nhân loài có gì ảnh hưởng lớn lao, cũng là không cách nào
giải thích việc khó hiểu này, không cách nào đi sâu hơn, được nhìn thấy mọi bí ẩn hoàn mỹ trong đó, bởi vì sự phát
hiện Huyền Quan Khiếu, tuy không phải Thiên Đạo phát
hiện trước nhất, nhưng muốn mở ra lực lượng thần bí của “nó”, duy chỉ có thông qua chỉ thụ của Thiên mệnh Minh
Sư, nhờ vào đại uy thần lực mới có thể thật sự mà tiến vào
Chí Thiện Bửu Địa này, khai thác trí tuệ đầy đủ vô cùng vô
tận của chúng ta. Vị trí của “tùng quả thể” này là Huyền
Quan Khiếu tiến vào Tam Thốn, nơi Minh Sư nhất chỉ
điểm, Đạo gia gọi nơi đó là “nội Huyền Quan”, “Trung
Cung”, “Thượng Đan Điền”, trên y học gọi nơi đó là “Sinh
vật từ”. Nơi này chính là sự huyền diệu nhất trong kho báu
mạng sống nhân loại.
Là Thông Thiên Thần Chú của tránh kiếp lánh nạn. Bảo thứ hai của tam bảo là “Khẩu Quyết”, còn gọi là
“Ngũ tự chân ngôn”, là một thứ chú ngữ, là khẩu lệnh qua
cửa ải để trở về cố hương Lý Thiên, cũng là câu thông
thiên thần chú tránh kiếp lánh nạn lúc tại thế, hơn nữa, là
tâm pháp của Bạch Dương kì để chúng sanh thời mạt pháp
hàng phục vọng niệm phiền não trong lúc tu hành. Người tu hành từ xưa đến nay, nếu muốn đắc đạo,
ngoài những việc phải khổ tu khổ luyện như lời nói trên, hơn nữa phải “Thiên lý tầm Minh Sư, vạn lý cầu Khẩu
Quyết”, cầu Minh Sư nhất chỉ điểm, còn phải cầu Minh Sư
truyền thụ tâm pháp để tu luyện; mà tâm pháp này không
tại trong văn tự kinh điển hữu hình, mà là một thứ pháp
thậm thâm vi diệu của khẩu truyền tâm ấn. Cho nên, trong
lúc chúng ta cầu đạo, Điểm Truyền Sư đại diện Thiên mệnh Minh Sư, trong lúc truyền thụ Khẩu Quyết, chẳng
phải thông qua văn tự ở trên giấy, chỉ là khẩu truyền, người
cầu đạo chỉ cần khắc ghi trong tâm được rồi, khi sử dụng
cũng không thể niệm ra tiếng, đây là chỗ huyền bí của
Khẩu Quyết.
Sau khi chúng ta cầu đạo, đại đa số tâm người vẫn
như cũ cứ phóng ra ngoài, nếu chúng ta thường niệm Khẩu
Quyết - ngũ tự chân ngôn, tất có thể trụ “lao thuyên ý
niệm”, không bị tùy tiện phóng ra ngoài mà không thể chế
ngự được. Bởi vì sự dẫn dụ bên ngoài thật sự quá nhiều rồi,
chúng ta không cách nào dùng niệm lực tự mình để khắc
phục, đành phải tiếp dẫn lực lượng của bên ngoài để hàng
phục, mà phương pháp tốt nhất chính là dựa vào niệm Phật
hiệu này để hàng phục vọng tâm vọng niệm của chúng ta,
chỉ cần có thể nhất tâm bất loạn trì niệm Phật hiệu, nhất
định được kiến tánh.
“Ngũ tự chân ngôn” này là Thông Thiên thần chú, là
quán thông Lý - Khí - Tượng tam thiên, trong đó có chân
nghĩa rất thù thắng. - Chữ thứ nhất “O”, tượng trưng cho tánh hư linh, Vô
Cực Lý Thiên, là cái “Lý” thường hằng mà không đổi.
Linh tánh của chúng ta đến từ Vô Cực Lý Thiên, bổn tánh
tất cả chúng sanh tại nơi đây không phân biệt nam nữ, chỉ
là một khối hư linh mà thôi, vô tư vô ngã, tự do tự tại,
thường thanh thường tĩnh, tiêu diêu vui sướng. - Chữ thứ hai “O”, tượng trưng cho khí hô hấp trên
thân người, Thái Cực Khí Thiên, là cái “Số” thường hay
thay đổi. Bổn tánh của chúng ta từ khi giáng sanh xuống
hậu thiên nhân gian này, tiếp nhận chủ tể của “khí số” ngũ
hành, vạn vật sự sống, chết, mất đi, lớn lên, nhật nguyệt
tinh tú xoay quanh nhau, không cái gì không nhận được sự
chưởng quản của Khí Thiên. - Chữ thứ ba “O”, tượng trưng Phật Tổ thị hiện tại
phàm gian, chỉ bảo chúng sanh phải từ tượng thiên siêu Khí
nhập Lý. Thân hữu hình này kết cuộc cũng là hư ảo, nên
sớm ngày mượn giả tu chân, trở về bổn vị. Vì vậy tất cả
chúng sanh trong tượng thiên đều nên noi theo Tiên Phật, lấy đó làm tôn, lấy đó làm quý, nỗ lực noi theo Thánh Hiền,
để mai này tất nhất định trở về Lý Thiên. - Chữ thứ tư và thứ năm, đó là Phật hiệu Tổ Sư
chưởng Thiên bàn của thời kì Bạch Dương đại khai phổ độ, đồng thời cũng tượng trưng cho người hữu duyên đắc đạo
tu đạo trong thời kì mạt hậu này, nên theo gương hoan hỉ
độ lượng của Di Lặc Lão Tổ Sư, tri túc cảm ân, phù hợp
bổn hoài tâm từ của Di Lặc Tôn Phật, sửa thói hư bỏ tật
xấu, tu tâm dưỡng tánh, hồi phục lại bổn tánh viên giác,
tiến bước nữa là thay Trời tuyên hóa, thế Sư tuyên ngôn,
độ hóa đồng bào anh em hữu duyên chưa được cầu đạo,
đây mới là chân chánh trì dụng Khẩu Quyết, mai sau nhất
định có thể nương tựa nguyện lực Phật lực của Di Lặc Tổ Sư và Tế Công Hoạt Phật, Nguyệt Tuệ Bồ Tát tiến cử. Chẳng những lúc tại thế trong tâm luôn luôn là Thiên đàng,
thân này sau khi qua đời cũng nhất định có thể với chư
Phật chư Tổ gặp nhau trên Lý Thiên. Cho nên, bảo thứ hai
Khẩu Quyết có thể hiểu thêm là: Để cho sinh mạng thể xác
có giới hạn này trở về bổn lai diện mục nguyên thủy nhất
trong Vô Cực Thái Cực, do sinh mạng thể xác này được
hòa nhập viên mãn với vạn vật trong vũ trụ mà phản bổn
hoàn nguyên, từ phàm tục viên mãn chuyển biến thành
Phật, từ đây về sau, sinh mạng không còn “tham, sân, si”,
mà là như tên gọi Thánh Danh của Phật Di Lặc, nghĩa là
mọi người đều lấy chữ “Từ” làm họ tên, để tỏ ra tâm hoài
từ bi vô bờ bến như Phật Di Lặc.
Phương thức trì niệm Khẩu Quyết cũng bắt đầu từ tam
bảo là nhanh chóng nhất, cũng là phương pháp đơn giản
nhất chính là mặc niệm, chỉ là không niệm ra tiếng hoặc
viết ra là được rồi. Mặc niệm, trì tụng năm chữ này, chẳng
những không trở ngại trong việc đi đứng nằm ngồi, hơn
nữa còn trợ lực cho trạng thái tâm linh và sức khỏe của
chúng ta được nâng cao, có thể hàng phục vọng tâm tạp
niệm, trong lúc chúng ta có nạn, còn có thể cầu xin chư
Thiên Thần Phật đả bang trợ đạo để xoay chuyển nguy kịch.
Cho nên chúng ta còn gọi là “Thông Thiên Thần Chú”.
3. Bảo thứ ba - Hợp Đồng:
Là Thông Thiên thủ ấn hồi hương diện kiến Mẫu nhan.Bảo thứ ba gọi là “Hợp Đồng”, từ cổ xưa người tu
hành đều có thủ ấn để nhận kí, đương lúc mạt hậu Bạch
Dương Kì, lúc chúng ta cầu đạo, Điểm Truyền Sư truyền
cho chúng ta, đó chính là đôi tay chắp chéo, là thủ ấn Hợp
Đồng. Tiên Phật nói: “Tí Hợi chấp chéo ôm trong lồng
ngực, có thể thoát khỏi cửu cửu đại kiếp quan”. Đây là biểu
thị, đôi tay thường ngày ôm lấy Hợp Đồng nơi trước ngực,
tự nhiên sẽ thâu thúc lại những loạn tâm tạp niệm. Đồng
thời cũng tượng trưng khôi phục lại cái tâm xích tử, lại
cộng thêm thủ huyền và mặc niệm Ngũ tự chân ngôn, thì
có thể tránh kiếp lánh nạn, ý nghĩa sâu hơn nữa là tránh
khỏi kiếp luân hồi, không bị vọng niệm quấy nhiễu. Đôi
tay con người là đại biểu tất cả sự hiện tượng tương đối,
tay trái thuộc thanh, là dương, là thiện sanh, là mặt quang
minh; tay phải thuộc âm, là trược, là ác tử, là mặt hắc ám.
Cho nên Hợp Đồng đôi tay, tay trái ôm lấy tay phải, hàm ý
trong tâm linh con người nên vứt bỏ đi mọi ý thức đối lập
và phân biệt, và mọi thứ khởi đầu của ý niệm không tốt, hồi phục lại ý thức bổn lai cho thuần nhiên tuyệt đối.
Một số người lúc trầm tư, hay vô tình đôi tay hợp lại
tự nhiên, trong lúc này tâm linh dễ dàng bình lặng yên tĩnh, dễ dàng tập trung ý thức, suy xét cũng được sáng suốt hơn, và tự nhiên cũng sẽ tiêu trừ tạp niệm. Hợp Đồng thủ ấn này
chẳng những có tác dụng trừ bỏ đi vọng niệm, làm cho tinh
thần con người tập trung, cũng giống như “dây anten” vậy,
để con người tiếp nhận được mọi thứ tốt đẹp trong đại tự nhiên. Tại vì Hợp Đồng thủ ấn là bàn tay hợp lại, là
phương thức đại diện bổn lai thân phận của mỗi con người,
đều là con của Chúa tạo vật, là Linh tử, cũng là Phật tử, mọi người nếu có thể thường tồn cái tâm xích tử, tâm ấn và
thủ ấn hợp lại, chính là lớn cùng Thiên địa vậy, cũng là ấn
kí hiệu sau này trở về cố hương quy căn nhận Mẫu.
Phương pháp ôm Hợp Đồng, là đôi tay chắp chéo nơi
Tý Hợi, “Tý” “Hợi” là đầu và đuôi của 12 địa chi, Chữ “Tý” 子 và chữ “Hợi” 亥 hợp lại trở thành chữ “Hài” 孩 . Dân
gian chúng ta xưa nay tục ngữ hay nói, phàm là người có
chuyện vui, thường nói là bồng một đứa bé không biết
khóc, thử nghĩ xem đứa bé nào có thể không khóc? Chỉ có
ôm Hợp Đồng, đó là đứa bé không biết khóc, còn có thể
tiêu tai lánh nạn, mới là việc vui mừng lớn nhất. Vì vậy
Hợp Đồng còn gọi là “Tý Hợi quyết”, diệu quyết này là
nắm khí số sanh diệt của Thiên địa vào lòng bàn tay, hơn
nữa, tu trì có thể siêu Khí nhập Lý trở về Lý Thiên, cho
nên còn gọi là “Phiên Thiên ấn” (ấn trở về Trời). Tay ôm Hợp Đồng khấu đầu lễ Phật, nếu có thể sớm
tối giữ lấy tâm chân thành, thiên chân hiển lộ, hết sức chăm
chú khấu đầu, công phu thủy chung như vậy không ngừng,
thì chẳng những trong lúc thắp hương khấu đầu tâm vô tạp
niệm, mà trong lúc không có thắp hương khấu đầu cũng có
thể thanh tĩnh như thường, không bị vọng niệm quấy nhiễu,
thì tự nhiên đạt bổn hoàn nguyên, không còn vướng vào sanh tử luân hồi.
Ngoài ra, trong lúc tay ôm Hợp Đồng khấu đầu lễ
Phật, tư thế đó tựa như tư thế đứa bé còn trong bụng mẹ
chưa sanh ra, cúi người cong lưng, Huyền Quan đối Hợp
Đồng (“Vô ảnh sơn tiền đối Hợp Đồng”) hàm ý là chúng ta
phải quay về cái tâm xích tử, quay về bổn lai diện mục
thuần khiết vô nhiễm, tâm xích tử là tâm thuần thiện thuần
dương tuyệt đối không chút phân biệt đối đãi, duy chỉ có
giữ lấy bổn lai diện mục đó, linh tánh chúng ta mới có thể
trở về trong lòng Lão Mẫu.
3. Dẫn Bảo Sư:
chân chánh thể ngộ sự tôn quý và chân thật của đạo.
Bài tập tu hành kiến nghị tại đây đại khái chia ra 2
môn học là: cần tu và chọn tu, sơ lược như sau:
III. Trì dụng tam bảo như thế nào?
Tam bảo tu trì là pháp môn thù thắng nhất của Nhất
Quán Đạo, sự linh diệu và ứng nghiệm thực tế chứng minh
nhiều vô số kể. Cho nên, phàm là đạo thân đã cầu đạo tuyệt
đối không thể nào quên, không chỉ là phải ghi nhớ, mà còn
phải biết vận dụng như thế nào. Diệu dụng của tam bảo,
những người thuộc “tầng giới tiểu” có thể thoát kiếp lánh
nạn, những người thuộc “tầng giới trung” là bùa hộ thân
lúc trăm tuổi về Trời, những người thuộc “tầng giới thượng”
là có thể khế nhập tam bảo, cũng là cốt lõi của thiên kinh
vạn điển, là chân truyền của ngũ giáo, đắc được tam bảo
tức thì có thể khai ngộ, làm quyến thuộc của Di Lặc, tùy
duyên liễu nguyện, thay Trời tuyên hóa, thế Thiên hành
đạo, đồng trợ thu viên.
Vậy, tam bảo phải sử dụng như thế nào? Nếu như xảy
ra hung hiểm bất ngờ, khi sức người không cách nào kháng
cự, hay lúc sinh mạng gặp nguy hiểm, ví dụ gặp phải thiên
tai nhân họa, hoặc là bệnh cần phải tiến hành phẫu thuật,
hoặc đột nhiên bệnh cấp tính… Chỉ cần lập tức để ý niệm
tập trung tại Huyền Quan Khiếu, tưởng nơi Minh Sư nhất
chỉ nơi đó, đồng thời trong tâm mặc niệm nhiều lần ngũ tự
chân ngôn, đôi tay bắt Hợp Đồng, ngón tay khép kín, chắp
chéo hợp lại để nơi trước ngực, thành tâm kính ý, tánh tâm
thân hợp nhất, chí thành khẩn cầu, hướng chư Thiên Tiên Phật báo ra họ tên của mình, sau đó hướng Tiên Phật bẩm
báo khó khăn gì mà bạn gặp phải, cầu xin Ơn Trên từ bi
xoay chuyển trợ giúp hóa giải, tức được phùng hung hóa
cát, gặp nạn hóa lành. Đây là tình huống thường dùng nhất
của tam bảo. Nhưng có một điểm cần chú ý là, bạn đã dùng
tam bảo rồi, đã thành tâm hướng chư Thiên Tiên Phật cầu
xin rồi, thì phải để tâm khẩn cầu buông xuống, việc gì cần
giải quyết cũng phải đi giải quyết, không thể một mực ỷ lại,
chờ đợi sự trợ giúp hóa giải của Tiên Phật.
Thù thắng nhất của cầu đạo chính là đắc thụ Minh Sư
truyền thụ tiên thiên tam bảo, vì thế cần hiểu rõ sự ảo diệu
của tam bảo, diệu dụng của tam bảo tuy có trợ giúp cho
người tránh kiếp lánh nạn, nhưng đó là một sự từ tâm bi
nguyện của Tiên Phật Bồ Tát đối với chúng sanh, và ấn
chứng sự tôn quý của Thiên Đạo mà thôi. Mà công dụng
của tam bảo chẳng phải duy nhất như vậy, cần thiết sử
dụng tam bảo hằng ngày, công phu luyện đến thuần thục,
mới có thể khế nhập thâm thúy tâm pháp, cũng mới có thể
phát hiện trong tam bảo vốn dĩ bao hàm ảo diệu thâm sâu
của chân lý, là đúc kết của ngũ giáo kinh điển, là tổng tinh
hoa tâm pháp của các giáo Thánh nhân, chẳng những trong
lúc gặp nạn có thể sử dụng mà trong lúc bình thường, nếu
có thể luôn luôn bảo thủ thì sẽ dần dần nhiếp thụ suy nghĩ
rối ren của chúng ta, để cho tạp niệm trong lòng trở về nơi
Minh Sư nhất chỉ, lâu ngày công phu thuần thục, thủ như
không thủ, niệm như không niệm, quán như không quán,nghĩ như không nghĩ, như vậy tùy duyên bất biến, thì lục
căn sẽ được thường ứng thường tĩnh, mai này tức được siêu
thoát lục đạo luân hồi, trở về Vô Cực.
Bảo thứ nhất
- Cách sử dụng Huyền Quan Khiếu:
Hai mắt nhắm lại tám phân mở hai phân (người mới
học có thể nhắm lại hết), để ý niệm tập trung tại chỗ Minh
Sư nhất chỉ, lúc này tức “thủ huyền” “ý thủ huyền quan”. Lúc thủ huyền phải chú ý là, đó là “ý thủ”, chẳng phải
“nhãn thủ”, tuyệt đối không thể để hai mắt nhìn nhau chằm
chằm (mắt lé), phải để ý niệm - tinh thần quán tưởng
Huyền Quan Khiếu, đồng thời còn có thể quán tưởng hơi
thở ra vào tại Huyền Quan, giúp cho tập trung ý niệm. Lâu
ngày công phu thuần thục rồi, lúc thủ huyền có thể không
cần nhắm mắt, để ý niệm chuyên chú việc gì đó, tự nhiên
sẽ tiến vào trạng thái thủ huyền
Bảo thứ hai
- Sự trì dụng Khẩu Quyết:
Trong lúc ý thủ Huyền Quan, thành tâm kính ý, lưỡi
cong lên hàm trên, ngậm môi lại, trong tâm mặc niệm ngũ
tự chân ngôn ba đến năm lần (nhiều hơn nữa cũng được)
có thể giúp cho ý niệm tập trung, đồng thời trong lúc mặc
niệm chân ngôn, có thể phối hợp hơi thở ra vào cùng quán
tưởng Huyền Quan, trong lúc thở ra, tức thì niệm một chữ
hoặc một biến, như vậy đối với thu nhiếp niệm đầu tương
đối có thần hiệu.
Bảo thứ ba
- Sự trì dụng Hợp Đồng:
Đương nhiên có thể bắt Hợp Đồng trong lúc đôi tay
không bị công việc ảnh hưởng, tay phải ở trong, tay trái ở
ngoài, ngón tay khép chặt, bắt chắp chéo ở trước ngực hoặc
để tự nhiên trên đùi. Ngoài ra, nếu vận dụng tam bảo cùng
lúc khấu đầu lễ Phật thì hiệu dụng càng tốt.
Nhưng, nếu gặp phải thực sự nguy nạn, trong lúc
không kịp sử dụng tam bảo (như lái xe gặp phải tình huống
khẩn cấp), nhất thiết không thể cố chấp tay bắt Hợp Đồng
hoặc nhắm mắt thủ huyền, lúc đó phải nhờ vào thường
ngày thành tâm bảo thủ đối với tam bảo, cùng với Chân
Nhân tĩnh tọa tu luyện thuần thục, bởi vì duy chỉ có hằng
ngày tương thông cảm ứng cùng chư Thiên Tiên Phật Bồ
Tát, bình thường luyện cho được ý niệm tập trung, và sự
kiền tâm thành kính hợp với ngũ tự chân ngôn, trong lúc
gặp phải thực sự nguy nạn, đương nhiên có thể không cầu
chư Phật Bồ Tát cũng tự đến, vô hình hóa giải nguy hiểm.
Đây mới là chỗ diệu dụng chân chánh của tam bảo tâm
pháp.
Tam bảo là Thiên cơ mật bảo, không đúng thời không
giáng không đúng người không truyền, từ xưa đến nay
thiên cơ không dễ dàng tiết lộ, cho nên không thể nói ra,
cũng không thể viết rõ văn tự, như vị trí chính xác của
Huyền Quan, ngũ tự chân ngôn là ngũ tự gì, tay bắt Hợp
Đồng thế nào… Nếu quên đi tam bảo, cũng không thể hỏi đạo thân hoặc Dẫn bảo sư, càng không thể tiết lộ, chỉ có
thể ở trong tiên thiên Phật đường, thắp lên ba ngọn đèn
Phật, mới có thể diễn giảng. Tại vì trong tiên thiên Phật
đường này, ba ngọn đèn Phật có Phật lực che chở không
thể nghĩ bàn, lúc thắp lên đèn Phật, chư thiên Thần Thánh
và Tiên Phật lập tức đến đàn hộ pháp, bốn phía Phật đường
hình thành một luồng hào quang bao phủ, có thể cản lại
không cho bốn phía sơn tinh thủy quái và những đối tượng
khác trong giới vô hình không được đắc đạo len lỏi vào
nhìn thấy, như thời cổ xưa đơn truyền độc thụ dùng cà sa
che phủ. Cho nên thiên cơ nhất định phải ghi nhớ, tuyệt đối
không thể tiết lộ, cho dù là người thân như cha mẹ, anh em,
vợ chồng cũng vậy, mong muốn đắc thụ tam bảo, duy chỉ
có trải qua Thiên mệnh Minh Sư khẩu truyền tâm ấn, nếu
không, dù cho biết được danh tướng của tam bảo mà chưa
cầu đạo, thì đối với tam bảo cũng không có bất kì tác dụng
gì, ngược lại còn trở thành chướng ngại của cầu đạo sau
này; người tiết lộ thiên cơ, cũng sẽ chịu cái khổ Thiên
khiển lôi chu của lương tâm khiển trách.
IV. Đừng quên ba vị Sư:
Từ xưa đến nay, vì sao “Tu đạo như lông trâu, thành
đạo như sừng trâu”? Vì sao người tu đạo nhiều, người
thành đạo lại ít? Thực ra nguyên nhân chủ yếu là “Minh Sư
nan ngộ” “Chân đạo nan phùng” đấy. Mà chân đạo cần
phải dựa vào Minh Sư có Thiên mệnh, chỉ điểm truyền thụ, mới có thể lưu truyền phổ độ. Ngày xưa, chân đạo là đơn
truyền độc thụ, cái gọi là “chánh pháp bất truyền lục nhĩ”,
nếu không phải người có phước phần căn cơ thâm hậu,
tuyệt đối khó gặp Thiên mệnh Minh Sư ứng vận giáng thế
mà cầu được đạo. Mấy ngàn năm đến nay, cái gọi là “giáo
có ngàn vạn pháp, tông môn một con mắt”, giáo hóa sớm
lưu hành đã phổ biến toàn thế giới. Tại sao Chân Đạo lại
chưa được phổ truyền rộng rãi như những giáo môn khác
đến người hữu duyên? Cũng vì nguyên nhân là Thiên mệnh
truyền thừa ngưng đoạn, Minh Sư chưa giáng thế. Hôm nay, chúng ta may mắn gặp được tam kì phổ độ, Thượng Thiên đại khai ân điển phổ độ tam tào, vì giáng
xuống Tiên Thiên Đại Đạo này, Ơn Trên lại lần nữa giáng
xuống Thiên mệnh, do Tổ Sư, Sư Tôn, Sư Mẫu phụng
Thiên thừa vận, tiếp nối minh mệnh của Ơn Trên, vì bàn
một đại sự nhân duyên của mạt hậu thâu viên, quảng độ
chúng sanh hữu duyên. Cho nên chúng ta sau khi cầu đạo, càng phải ghi nhớ tam bảo của Đại Đạo, là do Thiên mệnh Minh Sư truyền thụ cho chúng ta, cũng duy chỉ có Thiên
mệnh Minh Sư này, mới có thể truyền tam bảo tâm pháp
mà xưa nay không dễ truyền cho, cũng mới có thể thật sự
giúp chúng ta mở ra Huyền Quan bị bụi trần che lấp trùng
trùng bế tắc đã lâu, để chúng ta thấy ngay bổn lai chân như.
Vì vậy, sau khi chúng ta cầu đạo rồi, trước tiên nên
hiểu rõ không được quên “ba vị Sư”, bởi vì nếu thiếu một
trong ba vị Sư, tất chúng ta không thể đắc đạo, cho nên, ơn
của ba vị Sư không được quên.
1. Đương thời Thiên mệnh Minh Sư
Là Bạch Dương tam Thánh:
Tổ Sư - tức Di Lặc Cổ Phật chấp chưởng Thiên bàn
của thời kì Bạch Dương, phân linh giáng thế kiếp này là
Đời Tổ Sư thứ 17 của Thiên Đạo chúng ta, tục gọi là họ Lộ, Thánh húy thượng Trung hạ Nhất. Sanh vào ngày 24 tháng
4 năm Đạo quang thứ 29, đản sanh tại Tế Ninh tỉnh Sơn
Đông. Giữa năm Quang Tự được Tiên Phật chỉ dẫn, phỏng
cầu Thanh Hư Tổ Sư để đắc đạo, vào ngày 15 tháng 03
Thanh Quang Tự năm 31 phụng Thiên mệnh chưởng Thiên
Bàn, phổ độ chúng sanh, nay là Sơ Tổ Bạch Dương, sau
khi quy không, Thượng Thiên phong là Kim Công Tổ Sư.
Sư Tôn - tức Tế Công Hoạt Phật (thường xưng là
Hoạt Phật Sư Tôn), phân linh giáng thế kiếp này là Sư Tôn
của chúng ta, tục gọi là họ Trương, Đạo hiệu thượng Thiên hạ Nhiên, Thánh húy thượng Khuê hạ Sanh, tự thượng
Quang hạ Bích. Sanh vào ngày 19 tháng 07 năm Quang Tự
thứ 15, cũng đản sanh tại Tế Ninh tỉnh Sơn Đông, năm
1915 cầu đạo, năm 1930 phụng mệnh. Từ Đạt Ma Tổ Sư
đến nay là đời Tổ thứ 18, tức là Bạch Dương nhị Tổ. Năm
1947 vào đêm trung thu tại Tứ Xuyên Thành Đô quy
không, Thượng Thiên sắc phong là Thiên Nhiên Cổ Phật.
Sư Mẫu - tức Nguyệt Tuệ Bồ Tát, phân linh giáng thế
kiếp này là Sư Mẫu, tục gọi là họ Tôn, đạo hiệu thượng Tố
hạ Chân, Thánh hiệu thượng Tuệ hạ Minh. Sanh vào ngày
28 tháng 08 năm Quang Tự thứ 21, đản sanh tại Đơn
Huyện tỉnh Sơn Đông. Đến năm 1930, cùng Sư Tôn đồng
lãnh Thiên mệnh, phổ độ nguyên-thai càn khôn. Vào năm
1975 quy không, Thượng Thiên sắc phong là Trung Hoa
Thánh Mẫu.
2. Đại biểu Minh Sư - Là Điểm Truyền Sư:
Trung Dung viết: “Đại đức giả tất thụ mệnh” (Người
có đức lớn mới lãnh được Thiên mệnh). Sư Tôn và Sư Mẫu
gánh vác Thiên mệnh truyền đạo, do chúng sanh vô tận,
không cách nào phân thân độ hóa chúng sanh khắp mọi nơi, cho nên ở Thượng Thiên thọ mệnh, được đem “Thiên
mệnh” truyền đạo điểm đạo này, đề bạt tuyển chọn người
có đức vì đạo hy sinh cống hiến mà lãnh thụ từ mệnh này
như Lão Tiền nhân, Tiền nhân đạo cao đức trọng... để đại
biểu Sư Tôn Sư Mẫu truyền đạo, xưng là Điểm Truyền Sư.Vì thế, sau khi cầu đạo, đương nhiên không thể quên ơn
Điểm Truyền Sư, chỉ điểm thụ kí Tiên Thiên Đại Đạo cho
chúng ta, phải cảm tạ ân khai đạo đó. Chúng ta cũng phải
hiểu rõ, chúng ta cảm ơn người đó là vì tôn kính “Thiên
mệnh” truyền đạo của Điểm Truyền Sư, chẳng phải vị
Điểm Truyền Sư điểm đạo lúc đó, để tránh không rơi vào
sùng bái cá nhân một cách mù quáng, cùng phân biệt đối
đãi hoặc tu đạo nhân tình. Đương nhiên, đối với cá nhân
Điểm Truyền Sư, chúng ta cũng nên đáp lại bằng lễ kính
trong đạo là tôn Sư trọng đạo, và luân lý đạo trường là thừa
thượng khởi hạ, tại vì Điểm Truyền Sư chẳng những là đại
diện Thiên mệnh Minh Sư truyền thụ chỉ điểm, còn là tinh
thần và trụ cột thực tế khai sáng đạo vụ của đạo trường.
Nếu không có Thiên mệnh vô hình của Thượng Thiên hộ
trì và sự lãnh đạo hi sinh của Điểm Truyền Sư, đạo vụ rất
khó khai sáng đấy, hôm nay chúng ta cũng không thấy
được đạo vụ hồng triển, đạo truyền vạn quốc cửu châu rồi.
Phật gia có nói: “Phật có tam bất độ: Người vô duyên
không độ, người vô nguyện không độ, người vô tín không
độ”. Hôm nay chúng ta dưới tình trạng một chút công đức
còn chưa lập, vô công vô đức, mà có thể được nghe Tiên
Thiên Chân Đạo hằng cổ chưa truyền này, ngoài ra, là
chúng ta lũy kiếp có tu trì, tổ đức che chở, căn cơ duyên
phận chín mùi, nhưng khác với quá khứ là, kiếp này tuy gặp Đại Đạo phổ truyền, nếu không có sự tiếp dẫn của dẫn
sư và bảo sư, tại trước Phật lập nguyện bảo chứng, thì dù
cho trên tay bạn có vạn lượng vàng, Điểm Truyền Sư cũng
không thể nào đem đạo truyền cho bạn. Nay bởi vì thời kì
mạt pháp, đạo và kiếp cùng giáng, Chân Đạo để cứu thiện
nam tín nữ hữu duyên, kiếp nạn để thâu thúc những kẻ ác
vô duyên, cho nên cần phải có người hữu duyên dẫn độ và
người bảo chứng đến tiếp dẫn chúng ta vào cửa Phật cầu
đạo, và còn hướng Thượng Thiên bảo chứng chúng ta là
thân gia thanh bạch, phẩm tánh đoan chánh, là người tốt có
tư cách cầu đạo, bảo sư còn phải bảo chứng cho chúng ta
cầu đạo này là chánh đạo, chân đạo, tuyệt đối không phải
việc lừa dối chúng ta, còn ở trước Phật lập nguyện bày tỏ, Điểm Truyền Sư mới có thể đem đạo truyền cho chúng ta. Cho nên hai vị Dẫn sư Bảo sư có thể nói là một chiếc thiên
cầu của Thượng Thiên tiếp dẫn vô vàn chúng sanh, công
ơn này không thể mai một đi, không thể quên đấy!
V. Đem đạo vào cuộc sống:
A. Tu đạo không tách rời cuộc sống thường ngày. “Cầu đạo” là vì muốn chúng ta hiểu ra bổn lai diện
mục sanh từ đâu đến, chết đi về đâu, cùng được siêu sanh
liễu tử, mục tiêu tối cao là trở về cố hương Lý Thiên; sau
khi cầu đạo còn phải “học đạo”, đó là bài tập tiến một bước,
để chúng ta hiểu rõ ý nghĩa và giá trị hiện thực của mạng
sống con người, để bồi dưỡng nhân sinh quan, giá trị quan
và thái độ tích cực trong đời sống cho chính xác, để chúng
ta qua một cuộc sống đầy đủ hơn, chẳng phải như trong ấn
tượng một số người là người tu đạo đều phải rời xa trần thế, thoát tục, không dòm ngó đến cuộc sống nhân gian, đó là
việc làm tiêu cực bi quan và lẫn tránh hiện thực.
Sau khi “học đạo”, càng phải “tu đạo”. Ý nghĩa của tu
đạo:
1. Là sửa lại quan niệm giá trị và hành vi của mình
cho đúng, loại trừ đi thói hư tật xấu và cá tánh ham muốn
không tốt;
2. Nghiên cứu chân lý chánh đạo, ngộ ra liền thực
hành theo, và tiến bước nữa là ảnh hưởng người khác, bước
thêm là tiếp dẫn người ta cầu đạo. Tại vì, quan điểm giá trị
của chúng ta nếu có chỗ lệch đi, lúc phải đối mặt cuộc sống
muôn màu muôn vẻ, thường là phiền não không dứt; tiến thêm nữa mà hành vi có chỗ sai lệch, ắt sẽ tạo thành tội ác,
để lại mối hại cho nhân gian, lương tâm sẽ càng không yên.
Tiến thêm một bước mà nói, trong thời kì mạt pháp
này, người hữu duyên kiếp này đắc được đạo, không cần
xuất gia rời bỏ trần thế, ẩn vào không môn, càng không
phải là hành vi kì dị khác biệt với người phàm, mà là phải
tích cực đem Chân Đạo này hòa vào trong cuộc sống, nhất
là cương thường luân lý, là văn hóa tinh túy của nhà Nho:
ngũ luân bát đức, tam cương ngũ thường, v.v… cho thời
đại ngày nay có được giá trị và ý nghĩa, sửa đổi quan niệm
tư tưởng bị ảnh hưởng bởi văn hóa Tây phương mà biến
chất, để cho cuộc sống đi vào quỹ đạo nhân luân đạo đức,
về mặt nhỏ là làm người đời nay đường đường chính chính
không ưu sầu không lo âu, về mặt lớn là có thể chỉnh đốn
trật tự nguy kịch trong thế giới, vậy mới là người tu đạo
hiện đại hóa. Bởi vậy, tu đạo có thể cho chúng ta cuộc sống tâm an
lý đắc, ngay thẳng trong sạch, dưới sự dẫn dắt của chân lý
Đại Đạo, mỗi một vai diễn thích hợp nhất của chúng ta đều
phải diễn cho tốt, ở trong cuộc sống làm tròn trách nhiệm,
để trong mạng sống được thêm vào ánh quang, kỉ lập lập
nhân, kỉ đạt đạt nhân, để cho sinh mạng được đầy đủ ý
nghĩa, để cho cuộc sống thoải mái tự tại, an lành vui sướng.
Cái nhìn cao hơn nữa, là mục đích của tu đạo cũng
phải dựa vào thân giả này để tu luyện tự tánh của chúng ta,để cho tâm linh được thấm nhuần đến thuần khiết, khôi
phục lại đặc tánh cho thuần linh. Cho nên, ngoài cuộc sống
thực tế ra, tu đạo càng phải xem trọng về tầng giới linh
tánh. Nếu như linh tánh càng được thanh minh, đương
nhiên có thể làm cho bệnh tình thân xác thay đổi. Cũng
giống nhau nếu như tâm linh không nho nhã, túi da cũng sẽ
là thô đấy; nếu như thân xác yếu đuối không chịu nổi,
mạng cũng khó giữ được, thì làm sao tu đạo để cho linh
tánh được đề thăng đây! mà chỉ rèn luyện một mặt tâm linh.
Chẳng thà hai thứ phối hợp dựa vào nhau để tu, càng có thể
tăng tốc tu trì, để cho một kiếp tu một kiếp thành, giúp
ngắn lại thời gian trong quá trình khôi phục bổn lai diện
mục.
B. Phương pháp tu luyện khấu đầu lễ bái:
Phương pháp tu trì sau khi cầu đạo, một số chú trọng
nhiều ở sự trì giới hữu hình, bố thí, độ người, làm việc
thiện, in sách thiện hoặc đọc tụng trên kinh văn, nếu có thể
đi sâu hơn nữa dựa vào tam bảo tâm pháp, vận dụng vào
trong cuộc sống, là càng có thể phát huy được những điểm
bình dị và ảo diệu của đạo, tam bảo tâm pháp này cũng là
phương pháp của khấu đầu lễ bái thường ngày: động tĩnh
hợp nhất, tánh tâm thân hợp nhất, tam bảo hợp nhất, đây là
một thứ pháp môn tu luyện thượng thừa. Phương pháp tu
đạo này, ngoài rèn luyện tâm tánh để tầng giới linh tánh được nâng cao, còn dùng rèn luyện để phụ trợ cho sức khỏe
tốt hơn, có thể khiến người sức khỏe vốn suy nhược, người
ý chí không kiên cường, được chuyển từ yếu đuối trở thành
mạnh mẽ, khôi phục lòng tin đối với nhân sanh, xuất tiến
cho linh tánh trưởng thành, đạt đến mục đích bên trong
thanh tĩnh thuần chân viên mãn và bên ngoài thân thể khỏe
mạnh. Pháp này không có sự lý luận phức tạp, hoàn toàn là
sự sắp xếp diệu kì của Chúa tạo vật, dựa vào cấu tạo tâm
sinh lý tự nhiên của con người mà truyền xuống pháp môn
tu luyện tối cao, tự tự nhiên nhiên, người người có thể hành
trì, có thể thực hành, nguyện hành, là phương pháp tu luyện
tuyệt đối không có bất kì tác dụng phụ. Phương pháp và yếu tố của khấu đầu lễ bái, trước tiên
cần thả lỏng các bộ phận khớp của cơ thể, để cho toàn thân
cảm giác không có chút phụ lực, đem tất cả tạp niệm trong
tâm cũng vứt bỏ đi. Sau khi chờ thân tâm hoàn toàn thả
lỏng, ý thủ Huyền quan, để toàn thân tinh khí thần và ý
niệm đều tập trung tại nhất điểm, sau đó chiếu theo tư thế
quỳ lạy trên bái đệm, đôi tay bắt nhau đặt trên bái đệm, bộ
đầu đưa lên đưa xuống khấu đầu lễ bái tự nhiên. Lúc khấu đầu, quan trọng nhất chính là ‘đầu’ khấu
không phải ‘tay’ khấu, bộ đầu cần thiết cử động lên xuống, không phải chỉ dùng tay để vỗ động bái đệm. Đôi tay ôm
hợp đồng nhẹ nhàng đặt trên bái đệm ở một vị trí cố định,
hai đầu gối cùng nhau chóng đỡ thành tư thế quỳ lạy, để
lực chóng đỡ đặt trên hai đầu gối; đôi khuỷu tay giữ thoải
mái tự nhiên, chớ trở thành trạng thái cứng đơ, sau đó, bộ
đầu cử động lên xuống khấu lạy. Còn về phần khấu đầu, mỗi một người dựa vào khoảng rộng cảm thấy thoải mái
cho mình, là rất dễ tiến vào cảnh giới quên ngã. Nguyên do
bởi vì thân thể thả lỏng, trong lúc bộ đầu cử động khấu lạy
lên xuống, vị trí phụ lực là ở bộ cổ và bộ eo. Cũng nhờ ở
bộ cổ và bộ eo phụ lực, mà bộ đầu phối hợp cử động khấu
lạy, bộ eo trở lên và cột sống sẽ sản sinh ra một luồng sức
mạnh co động hướng lên trên, theo đà tự nhiên hít vào thở
ra, cùng với lồng ngực lúc co lúc nở, chẳng những lượng
hít thở tăng thêm và sẽ càng đi sâu vào lồng ngực, đem ô
trược của âm khí bên trong cơ thể bài tiết ra, sẽ hít vào
càng nhiều không khí trong lành, do tốc độ tuần hoàn của
khí huyết thúc đẩy cả toàn thân, làm toàn bộ lục phủ ngũ
tạng nhận được luồng khí chậm rãi mà hoạt động mạnh lên. Hơn nữa, phương pháp khấu đầu lễ bái này ít nhiều
đối với tâm linh được đề thăng và công hiệu về sức khỏe,
hoàn toàn phải xem mỗi một người trình độ tập trung ý
niệm mà định trong khi khấu đầu. Nếu như có thể hoàn
toàn không có tạp niệm, thậm chí luôn cả hít thở và tất cả
những thứ bên ngoài đều hồn nhiên vô tri, đạt tới cảnh giới
quên đi chính mình, thì trong tự nhiên hình thành linh tánh
được đề thăng. Nếu có tạp niệm vọng tưởng, thì công hiệu
ấy tự nhiên sẽ giảm bớt đi.Bởi vậy, trong lúc khấu đầu lễ bái, tốt nhất đem mọi
thứ trước đó trong ngày từ thân khẩu ý thể hiện ra, làm một
phen kiểm thảo, phản tỉnh sám hối cho triệt để, để bóng âm
trong thân tâm ô uế ô nhiễm tẩy trừ cho sạch sẽ, rồi lại bắt
đầu lễ bái khấu đầu, tự nhiên hiệu quả này sẽ khác nhau.
Nếu như niệm đầu cứ khởi lên không cách nào tập trung,
và trong lúc khởi nhiều tạp niệm vọng tưởng, lúc đó có thể
dụng tâm mặc niệm Ngũ tự chân ngôn, hoặc là Thanh Tĩnh
Kinh, Tâm Kinh cùng với các kinh văn khác đều được, vả
lại toàn tâm toàn ý để ý niệm quán trú tại Huyền quan nhất
điểm, một chữ khấu đầu một cái, thời gian lâu rồi, ý niệm
sẽ trở nên dễ dàng tập trung hơn, hiệu quả này cũng tương
đối thấy rõ.
Ngoài ra, trong lúc lễ bái cũng có thể một mặt khấu
đầu, một mặt đối với khuyết điểm sai lầm của thân tâm
ngôn hành trong quá khứ và hiện tại, và tương lai như thế
nào để thay đổi, làm một phen phản tỉnh kiểm thảo cho có
hệ thống, nhằm diệt đi những suy nghĩ lung tung, để cho
tâm không dẫn đến tán loạn phóng ra ngoài.
C. Tham dự Thánh nghiệp cứu thế của đạo trường:
Ngoài siêng năng lễ bái khấu đầu ra, sau khi cầu đạo
cũng phải tham gia vào hàng ngũ học đạo tu đạo nhiều mặt, bởi vì sáng tạo hoàn cảnh tu đạo cho mình là tương đối
quan trọng đấy. Dưới đây chỉ đề ra vài điểm để tham khảo:
1. Tham gia lớp nghiên cứu đạo lý:
Cái gọi là “Đạo đại lý vi”, chân lý là vô cùng vô tận,
muốn hiểu sâu xa sự thù thắng và tôn quý, thì cần thiết học
tập nhiều mặt và tham gia nghiên cứu. Đạo trường vì giúp
đỡ cho đạo thân vươn cao hơn, đều có mở ra tầng lớp
nghiên cứu đạo lý khác nhau, như mở ra lớp nghiên cứu cơ
sở (còn gọi là lớp “minh đức”) các nơi, sự thù thắng của
pháp hội là Trời người cùng làm, và các lớp bồi huấn nâng
cao để lý niệm đạo học được thâm sâu (các đạo trường lớp
nghiên cứu tên gọi không giống nhau, như lớp Tân Dân,
lớp Chí Thiện, lớp Bồi Đức, lớp Lệ Đức… trình tự các lớp
có tên gọi khác nhau), cùng với lớp kinh điển… từ cạn đi
vào sâu, từ rộng đi vào cốt lõi, đem đạo hòa vào trong cuộc
sống hằng ngày của chúng ta, để cho mình trở thành một
người chân chánh có đạo.
2. Nghiên cứu đọc sách đạo:
Sau khi cầu đạo nên nghiên cứu đọc nhiều sách đạo, nhờ cái thấy cái nghe mà được tăng thêm trí tuệ. Tại vì lộ
trình tu đạo của Thánh hiền xưa kia đều là tấm gương tốt
nhất để chúng ta tham khảo tu trì bản thân.
3. Thường xuyên về Phật đường:
Phật đường là nơi tốt nhất để học đạo tu đạo, ở Phật
đường cũng có thể thông qua học tập Phật quy lễ tiết, học
theo sở trường của những tiền hiền trong đạo, lấy quy tắc giới luật thân tâm, học tập khiêm tốn và hạ cái tâm xuống, dần dần thâm nhập vào mùi vị thật sự của đạo.
4. Tham gia hoạt động liên kết gắn bó:
Đạo trường có đôi lúc tổ chức một số hoạt động liên
nghị, như thăm viếng đạo thân, giao lưu, leo núi, bữa cơm
cắm trại, đêm hội trà họp mặt… để tăng thêm tình cảm gắn
bó giữa nhau, chia sẽ tâm đắc của tu đạo.
5. Sắp xếp bài học tu hành cho mình:
Thông thường người mới cầu đạo, bước khởi đầu đối
với “Đạo”, đều chưa có cảm giác gì, chưa cảm thấy được
đạo có điểm tôn quý hoặc thù thắng gì, hơn nữa, cũng bởi
vì đạo là bình thường đơn giản, cầu đạo rồi cũng chẳng
phải nhất định sẽ có thay đổi hoặc cảm ứng đặc biệt gì, mọi
thứ cũng bình thường, cho nên cũng sẽ xem nhẹ lơ là sự
quan trọng và cần thiết của tu đạo. Nhưng Sư Tôn từng nói: “Tri nhi bất hành, đạo phi ngã hữu”
1
, nếu sau khi đắc đạo
chúng ta không đem ý nghĩa và lý niệm cần thiết học đạo
tu đạo cho triệt để hiểu rõ, đem đạo hành ra thực tiễn trong
cuộc sống, thì cũng khó cảm thấy hứng thú trong tu hành,
làm hỏng đi nhân duyên thù thắng của cầu đạo. Bởi vậy
chúng ta nên dựa vào tình trạng sinh hoạt của mình, sắp
xếp bài tập tu hành cho thích hợp, để tâm được tinh tấn và
lý niệm tu đạo của chúng ta được tăng cường, mới có thể
(1) Tạm dịch : Biết mà không hành, chẳng phải mình có đạo
a. Cần tu: Cái gọi là bài tập cần tu của tu hành, chính
là mỗi một vị có tâm học đạo, người đó cần phải có đề tài
tu trì. Nội dung này kiến nghị như sau:
- Phản tỉnh sám hối: Tăng Tử nói: “Ngô nhật tam tĩnh
ngô thân”
2
. Nói đến tu hành, nếu như không có công phu
phản tỉnh chính mình, sẽ không biết được cái lỗi cái sai ở
chỗ nào, không biết dựa vào đâu mà tu. Nếu sau khi phản
tỉnh mà chưa thể sám hối, thì không dễ nảy sinh quyết tâm
sửa lỗi. Cho nên, phản tỉnh và sám hối thực ra là một thể. Mà việc phản tỉnh và sám hối không phân thời gian nào. Ở
trong cuộc sống, chúng ta phải học biết luôn luôn chú ý
niệm đầu và ngôn hành cử chỉ của mình, hễ là có chỗ
không thích đáng, đều phải ngay lập tức tĩnh tâm hối lỗi;
nếu không thể hồi quang phản chiếu ngay thời khắc đó, ít
ra cũng phải mỗi ngày trước khi ngủ, bình tâm tịnh khí, tay
bắt hợp đồng, quỳ hoặc nằm ở trên giường, tâm hướng
Tiên Phật bày tỏ cái lỗi sai trong ngày hôm đó, cầu xin xá
tội, cầu xin Tiên Phật từ bi chứng cho, sau này quyết không
tái phạm. Nếu có thể làm theo như vậy, lâu ngày công phu
(2) Mỗi ngày phản tỉnh mình ba việc: 1. Làm việc cho người có
bất trung không? Giao tiếp bạn bè có giữ chữ “Tín” không?
Những gì học được do thầy dạy có ôn lại không?thuần thục, trong lúc bình thường vọng tâm có chút khởi
dậy, cũng có thể lập tức tự giác mà hàng phục rồi.
- Y giới mà hành: Mạnh Tử nói: “Không dựa vào
khuôn phép, không thể nào trở thành vuông tròn”, cho nên
cần phải học tập Phật quy lễ nghi cơ bản trong đạo và quy
giới của các giáo Thánh nhân, mà chiếu theo đó cho sự tu
trì. Đối với người mới học đạo, góp ý một nguyên tắc đơn
giản để tham khảo: “Những việc không thể để người biết,
tuyệt đối không làm; những sự việc không thể làm, kiên
quyết không nghĩ”. Nếu chúng ta làm những việc gì, thấy
trong tâm bất an, thấy trong lòng hổ thẹn, vậy thì không
nên đi làm, ngay cả cái nghĩ cũng đừng nên nghĩ, có lẽ như
không có ai định tội chúng ta, nhưng tâm linh của mình đã
bị ô nhiễm, trên con đường tu hành sẽ gặp sự chướng ngại
cực lớn.
b. Chọn tu : Có thể dựa vào cá nhân mỗi người tự sắp
xếp thời gian thoải mái.
- Đọc sách: Mỗi ngày nghiên cứu đọc sách Thánh
huấn nửa giờ hoặc một giờ.
- Khấu đầu: Thường về Phật đường thành tâm kính ý
khấu đầu lễ bái Thánh Hiền Tiên Phật, tự nhiên vọng tâm
tạp niệm sẽ tự lắng đi, tịnh hóa tâm linh, sẽ dần dần trừ bỏ
tập tánh tự cao tự đại, và còn bồi dưỡng mỹ đức khiêm
cung.
- Thường hát thiện ca : Thiện ca là từ huấn của Tiên
Phật từ bi khai thị, thường hát thiện ca có thể thể hội tiếng
lòng của Tiên Phật và cũng là một cách dưỡng tánh vui vẻ
thư thái, có thể cảm chiêu thiện thần tập hợp như mây, để
nơi ở của chúng ta càng thêm tường hòa.
- Hành công lập đức: Cổ nhân nói: “Nhân gian vô bất
trung hiếu Thánh, Thượng Thiên vô vô công đức thần”
(3). Người có đại công đức, có thể tiêu đi oan nghiệp, có thể
tránh qua tai nạn, Đạo quả tất tinh tấn. Đặc biệt, nhân loại
chúng ta tại thế đã lưu lãng luân hồi sáu mươi mấy ngàn
năm, những thứ ác nghiệp tạo ra cao như núi, sâu như biển, muốn tu thành chánh quả hoặc là tế thế cứu người, trước
tiên cần phải hóa giải oan trái như núi trong lũy kiếp của
mình, mà muốn tiêu oan giải nghiệt, ngoài bản thân phải
siêng năng tu tập để bồi dưỡng “nội đức”, thì càng phải
làm nhiều việc tế thế lợi nhân, không được dừng lại để
không ngừng tích lũy “ngoại công” cho mình. Với người
mới học đạo mà nói, dưới đây là cách đơn giản để hành
công lập đức:
Đến Phật đường giúp làm việc đạo: Phật đường là
nơi quan trọng cho chúng sanh học đạo tu đạo, cần phải có
nhiều nhân lực tham gia và hộ trì. Chỉ cần mỗi người thời
gian cho phép, đều có thể đến Phật đường tự động tham gia
(3) Nhân gian không có Thánh nhân không trung hiếu
Trên Trời không có vị Thần không công đức.
làm những công việc vặt, ví như thu dọn hoàn cảnh, lau
chùi đèn Phật, chiêu đãi và việc bếp núc, sắp xếp văn thư,
an bài giao thông, tiếp đưa nhân viên… đều là trực tiếp
tham gia vào Thánh nghiệp hoằng pháp lợi sanh tại Phật
đường trong việc cứu độ chúng sanh.
.
Độ hóa thân hữu: Tục ngữ nói: “Cứu một mạng
người hơn xây bảy cấp phù đồ”, mà hôm nay chúng ta độ
người cầu đạo, không chỉ là cứu thể xác của họ thôi, mà
còn cứu linh tánh của họ thoát khỏi bể khổ sanh tử, miễn đi
kiếp luân hồi, vả lại cũng cho cả tổ tiên nhờ được ánh
quang. Cho nên độ người công đức lớn biết bao, là không
thể nghĩ bàn. Vì vậy, khi bạn cảm nhận được cái tốt của
cầu đạo, thì đừng quên đi phải độ hóa họ hàng bạn bè đến
Phật đường cầu đạo, để họ cũng được chia sẽ sự vui sướng
đắc được tam bảo.
. Trợ in sách thiện hoặc bố thí: Tục ngữ nói: “Thiện
tài nan xả
(4)”. Do vậy, có thể bố thí hoặc trợ in sách thiện, để giúp ích cho chánh pháp lưu truyền và tuyên dương đạo
nghĩa, để có thể khởi phát nhân trí, phong thái của xã hội đi
vào nề nếp, đều là công đức chẳng phải nhỏ.
Cứu cấp cứu nạn: Ngoài làm việc Phật sự ra, người
tu đạo trong lòng cần phải luôn tồn tâm từ bi, quan tâm xã
hội, làm nhiều việc thiện, cứu nạn tế cấp, phải lấy tinh thần
hi sinh phụng hiến đi phục vụ chúng sanh, để một luồng
(4) Tiền làm việc thiện khó bỏ ra.
thanh khí này được chảy vào trong xã hội, sau này mới có
thể gầy dựng lên nền tảng Tịnh Thổ nhân gian.
Sự kiến nghị phương pháp tu hành trên đây, đều là
pháp môn đơn giản nhất trong học tập tu trì tự nhiên. Bởi
vì “Đạo” vốn tự nhiên, cái gọi là “Tu Đạo”, nói một cách
nghiêm khắc hơn, cũng chỉ là khôi phục lại bổn lai chính
mình mà thôi, tìm lại cái tâm bổn lai đó, cũng chỉ là ngay
trong nhất niệm mà thôi. Cho nên nói tu đạo, kì thực chẳng
khó khăn, chỉ cần ở trong cuộc sống thường ngày, đem tinh
thần của Đạo thật sự phát huy ra là được rồi. Thời kì Bạch
Dương, người tu đạo là tại gia xuất gia, tại gia tu hành,
không cần phải thoát ly xã hội quần chúng mà đến thâm
sơn cùng cốc bế quan khổ tu. Tuy nói là “tiên đắc đạo, hậu
tu đạo”, nhưng cũng phải đối với ý nghĩa và giá trị trong
thời đại này nghiên cứu một chút để biết tu hành, tiến thêm
nữa là đem đạo thực tiễn hành ra, mới có thể bước trên con
đường tu đạo được thuận lợi vui vẻ. Cho nên, bạn ơi! Trong lúc bạn vì tương lai sự nghiệp
giao tế bôn ba, xin đừng quên đi cũng phải vì linh tánh
mình mà dụng tâm nhiều hơn, đừng đến lúc sắp với nhân
gian nói câu tạm biệt, mới phát hiện ra sinh mệnh của mình
hình như không chút ý nghĩa gì, vậy là quá muộn màng rồi.
VI. Lợi ích của tu đạo - Câu chuyện thực tế:
Thực ra, cầu Đạo tu Đạo có cái gì tốt? Làm người thời
đại ngày nay, trong thế giới cuộc sống rối bời gào thét và
tranh đấu, rốt cuộc phải dùng biện pháp nào để lòng người
không sợ hãi và tự tại đối mặt khi thiên biến vạn hóa, và dư
sức tung hoành trong khoảng thời gian biến hóa kì ảo vô
thường. Cầu Đạo! Duy chỉ có cầu Đạo! Sáu bảy chục năm
nay, toàn thế giới đã có mấy trăm ngàn người ấn chứng cho
việc cầu Đạo đắc đạo tu đạo có hữu ích đối với nhân sanh.
Sự phiền não đau khổ của nhân loại là đến từ nguồn
gốc không thể “làm chủ nhân của chính mình”, nguyên
nhân là không biết ngọn nguồn từ chân thật bên trong của
tự thân, và sở hữu khả năng tiềm lực sung mãn do Thiên
phú, và tràn đầy tất cả khả năng chân thực trong sinh mạng
bản thân, mà không cách nào nắm lấy vận dụng khai thác
thêm. Cầu đạo, đơn giản mà nói, chính là sự truyền thừa
chỉ điểm của Thiên mệnh Minh Sư, và lễ nghi Thần Thánh
của “Thiên nhân hợp nhất”, để pháp môn giải thoát bất khả
tư nghị này, chúng ta lũy kiếp tu hành mới đắc được, kiếp
này được nhiếp thụ lại trong giây phút cầu đạo, truyền thụ
cho người cầu đạo, mở ra cửa chánh của linh tánh tuệ mệnh
bị bẩm tánh thói hư tật xấu trong lũy kiếp che lấp, để chúng
ta vốn có diệu trí tuệ và tiềm năng vô hạn Thiên phú sẽ tự
nhiên dần dần thể hiện ra ngoài; nếu thành tâm hơn, từ nơi Minh Sư điểm hóa mà hạ công phu tu trì, học tập giác ngộ
sự tồn tại của trí tuệ sinh mệnh bên trong, tìm hiểu hàm
nghĩa chân thật về sự kết hợp giữa mình và vũ trụ, thì “đời
người” sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều. Vầng sáng của sinh
mạng cũng sẽ được phát huy dưới niềm vui “mọi việc
thuận ý” trong cuộc sống hằng ngày.
Không chừng “pháp môn giải thoát” vượt khỏi những
lý giải thường thức này lại không được nhiều người cảm
nhận ra. Nhưng, sự đề thăng của tầng giới sinh mệnh, cũng
đều là từ trong cuộc sống thường ngày từng chút thể hội và
tích lũy, cho nên, lợi ích và thù thắng của cầu đạo tu đạo, tất là trong cuộc sống thường ngày bạn và tôi có thể thể
ngộ và cảm nhận ra mới là thực tế. Ví như một vị đại sư
thiền tông đã nói: “Thế nào là tu đạo, thật thà ăn cơm, thật
thà ngủ, đó là tu đạo”.
Lâm đàn chủ là một vị càn đạo khoảng 30 tuổi, quá
khứ là người tự cho mình là có tinh thần mạnh mẽ vượt trội, là một thanh niên có tương lai, có thể chịu trách nhiệm
chính mình, tất nhiên là không kém tài năng. Do vậy, tuổi
trẻ cũng đã có năng lực thành tựu trên sự nghiệp. Nhưng, cá tính chủ nghĩa “gia trưởng”, bốn năm trước cũng không
đem lại cuộc hôn nhân viên mãn; bởi vì người vợ cũng
phải đi làm lo kế sinh nhai, còn phải chăm sóc bé gái mới chào đời, nhưng lúc đó Lâm đàn chủ chưa cầu đạo, lại một
mực chỉ lo cho sự nghiệp, nên vừa mới đầu tư cùng bạn bè,
không chút màng đến người vợ ban ngày đi làm, ban đêm
cực khổ chăm sóc con nhỏ quấy khóc. Chẳng những như
vậy, đối với người mẹ già ban ngày thay họ chăm sóc con
nhỏ và gia đình, Lâm đàn chủ cũng chưa từng có chút cảm
ơn, từ nhỏ có cá tính mạnh mẽ, anh ta lúc đó không biết thế
nào gọi là cảm ơn và hiếu thuận. Cho đến có một ngày…
“Tìm tôi kêu đi cầu đạo, lúc đầu chẳng phải là vì tình
người khách hàng hay sao! xem trên mặt làm ăn mua bán
với nhau thì tôi mới đi, ngược lại tôi cũng không phải là
người hoàn toàn vô thần luận”. Song, nói cũng lạ kì, anh ta
lại nói: “Sau khi tôi cầu đạo rồi, khoảng ngày chủ nhật tuần
lễ thứ 2, buổi tối có một người bạn bè khách hàng kêu tôi
đi uống rượu, nếu như bình thường, tôi không đợi tiếng thứ
hai là đã đi rồi, nhưng hôm đó tôi lại trả lời “Không được, tối nay tôi phải dẫn mẹ và vợ tôi ra ngoài ăn cơm”, mà thực
ra trước đó trong lòng tôi không có dự định này, cũng
chẳng phải trước đó nói với gia đình cùng nhau đi ăn cơm,
nhưng ngay lúc đó lại thoát ra câu nói này”.
Từ lúc đó trở đi, Lâm đàn chủ lại thêm một lần cảm
nhận được sự vui vẻ cả nhà cùng nhau đến quán ăn; cũng
đêm hôm đó, người vợ giải bày nỗi buồn khổ ngấm ngầm
chịu đựng trong lòng đã lâu không muốn nói ra, Lâm đàn
chủ là một người có tính chủ nghĩa “gia trưởng”, cá tính đó chẳng hiểu sao nay cảm thấy hổ thẹn, trong lòng chợt dấy
lên sự sám hối, “Tôi không biết phải phản ứng như thế nào
đối với sự oán trách của vợ. Tôi không nói gì cả, chuyển
mình qua, lại chẳng hiểu vì sao mà rơi nước mắt, lúc đó
hình như tôi mới cảm nhận được thực ra vợ mình còn vất
vả hơn mình nhiều.” Một tháng sau, anh ta tham gia 3 ngày pháp hội, bài “Nhân Sanh Chân Đế”, “Hiếu Đạo”, “Nhân Quả Báo ứng
và Tiêu Oan Giải Nghiệt”, mấy bài này làm cho tâm linh
của anh ta bị những cú sốc và rung động trước giờ chưa hề
có. Bởi vì đêm hôm đó, hồi tưởng lại mỗi một lời nói của
giảng sư trên giảng đài, trong lòng anh ta tự mình phê phán, anh ta ngẫm nghĩ lại mục tiêu và trọng tâm của cuộc sống;
anh ta bắt đầu phát hiện người mẹ già hiền từ suốt đời âm
thầm vì anh ta bỏ ra bao công sức, thì ra luôn luôn bảo vệ
anh ta (bao gồm số tiền đầu tư mua bán, phần lớn tiền đầu
tư đều đến từ người mẹ), anh ta bắt đầu có thể cảm nhận
được tâm trạng của người khác, đó là một điều hưởng thụ;
anh ta bắt đầu thích về nhà ăn cơm, bế con, thậm chí lúc
rãnh thích dẫn người nhà cùng nhau đến Phật đường nghe
đạo lý!
“Nhân ngoại hữu nhân, thiên ngoại hữu thiên, bạn có
tài lắm chăng nữa, giỏi lắm đi nữa, cũng chẳng qua là như
vậy thôi. Hơn nữa, sự nghiệp của tôi căn bản chỉ là một
công ty nhỏ, giám đốc tôi đây đến công ty khác, có thể không bằng cả quản đốc, tôi có gì đáng để tự phụ đây?”
“Điều này do giảng sư ở Phật đường nói tôi hay, tôi cảm
thấy rất có đạo lý”, bắt đầu biết được hạ cái tâm xuống và
hiểu được sự thiếu sót của mình, khiến cho Lâm đàn chủ có
tấm lòng săn sóc và quan tâm. Anh ta cũng không rõ vì sao
chính mình có sự thay đổi như vậy, hỏi một số đạo thân
trong đạo trường, người ta đều nói với anh ta, đây chính là
ích lợi của cầu đạo, là sức mạnh của đạo trên thân anh ta
làm sự ấn chứng tốt nhất. Hiện giờ trong gia đình anh ta đã
thiết lập Phật đường, cả nhà ngày ngày đều tắm gội trong
từ quang của Tiên Phật. giống như anh ta nói “Nhân gian
Thiên đàng” tại đâu đây? đến nhà anh ta xem sẽ biết thôi!
Câu chuyện thứ hai:
Trương tiểu thơ, trước đây cô ta làm trong công ty
quảng cáo ai cũng biết tiếng là “băng sơn mỹ nhân”. Lúc
đó cô ta làm chức vụ thư kí, mỗi ngày đều phải đối mặt rất
nhiều vấn đề với đồng sự, thêm nữa còn phải ứng đối sổ
sách của công ty. Công việc có thể nói là tương đối bận rộn,
còn phải thường xuyên tăng ca đêm, có thể cảm nhận được
áp lực công việc rất lớn. Thêm nữa, bản thân cá tính vốn dĩ
hướng về nội tâm, ít khi chủ động trò chuyện với người
khác, lại nữa, vì ngoại hình cô ta cũng không tệ, tuy luôn
luôn giữ khoảng cách với người khác, nhưng ít ra ở trong
mắt đồng nghiệp vẫn còn có thứ đẹp mông lung, cho nên mới được phong hiệu là “băng sơn mỹ nhân”. Nhưng lại là
“nhân vật đi đầu” bị các đồng nghiệp trình chủ quản nói là
thái độ công việc phải kiểm điểm lại. Vấn đề của cô ta
chính là quản giao với người không được tốt, thật ra bản
thân cô ấy cũng rất rõ, cũng rất muốn cải thiện, nhưng vì
tính cách cao ngạo lạnh lùng luôn đề phòng người khác, dù
cô ta đã xem nhiều sách về cải thiện quan hệ giữa người
cũng không hữu dụng.
Có một ngày, vì nhà họ hàng thiết lập Phật đường, cô
ta cùng người nhà đi chúc mừng, tình hình lúc đó không
hiểu gì nhưng cũng cầu được đạo. Nhưng Trương tiểu thơ
sau khi cầu đạo cũng chẳng có cảm giác gì đặc biệt, vẫn
như bình thường. Cho đến một ngày, dẫn bảo sư của cô ta
cũng chính là người bà cô đã thiết lập Phật đường, đến kêu
cô ta đi Phật đường nghe lớp, (dù sao ấn tượng đối với Phật
đường cũng không tệ, và không có bận gì khác, nên đi
theo). Kết quả, lớp Minh đức của Phật đường hôm đó giảng
lại chính là đề tài “Như thế nào đột phá chướng ngại của
bản thân, mở ra cho thành công quan hệ giữa người” thật là
đúng vị! Trương tiểu thơ nghe tới say sưa, câu nào cũng là
đạo, cô ta xem qua rất nhiều sách về cách quản giao với
người, chính là không tìm được điểm nào có thể thay đổi
chính mình. Nhưng đêm hôm đó ở Phật đường nghe đạo lý,
giảng sư nói sau khi cầu đạo phải thường dùng “tam bảo”, trong vô hình có thể thay đổi thói hư tật xấu của mình, vả
lại còn rất tỉ mỉ nói cho mỗi một đạo thân phải sử dụng tam bảo như thế nào.
Từ đó trở đi, Trương tiểu thơ thí nghiệm xem coi,
tranh thủ trước khi ngủ học tập “Chân Nhân tĩnh tọa” 5 đến
10 phút, hơn nữa, bắt đầu hiểu ra sự quan trọng của việc
quan chiếu và phản tỉnh chính mình. Trải qua sử dụng tam
bảo “Thủ huyền, mặc niệm Ngũ tự chân ngôn, tay ôm Hợp
đồng”, “Rất kì lạ, có luồng sức mạnh giúp tôi có thể hồi ức
lại mỗi một niệm đầu của mình trong ngày, cảm giác đó rất
rõ ràng, rất thư thái, mà tôi còn cảm nhận được lợi ích của
việc thay đổi”, “Từ khi tôi biết dùng tam bảo rồi, mỗi đêm
tôi đều có thể dễ dàng đi vào giấc ngủ, suốt đêm không có
mộng, một giấc đến sáng, ngủ ngon, tinh thần tốt, tâm
trạng cũng tốt hơn”.
Trải qua khoảng 2 đến 3 tháng, đồng nghiệp ở công ty
đã có thể thấy Trương tiểu thơ buổi sáng chủ động chào hỏi
mọi người, lúc làm việc cũng có nụ cười. Vốn dĩ cô ta
khuôn mặt cũng không tệ, lúc cười lại càng đẹp hơn. Cho
đến có một ngày, có người khách hàng tặng cô ta một bó
hoa và tấm thiệp khen nụ cười cô ta. Hôm nay cô Trương
là một vị tiền hiền khôn đạo có nụ cười ngọt ngào nhất
trong Phật đường, nơi nào có cô ta sẽ là tràn đầy tinh thần
và sức sống. Bất luận ai thấy được nụ cười ngọt ngào của
cô ta, vốn dĩ không được vui vẻ thì cũng lập tức tan thành
mây khói. Vậy là cô Trương chẳng những cải thiện được
quan hệ giữa người, đối với công việc áp lực phiền muộn cũng đều có thể cười cho qua chuyện, ngược lại càng nỗ
lực hơn. Hiện nay cô ta đã là thư kí của chủ quản trung cấp
công ty đó, cũng là một vị giảng sư trên đạo trường.
Câu chuyện thứ ba:
Cai thuốc, đối với người nghiện mà nói, tuyệt đối là
một việc đau khổ nhất, tin rằng cũng có nhiều người đều có
nhiều lần kinh nghiệm việc cai thuốc, thí dụ có người một
lần cai thuốc thì thành công, ngoại trừ có nghị lực và dũng
khí cực mạnh, nếu không thì có thể trong ngàn người cũng
khó có một người. Nhưng mà cầu đạo, đích thực có thể để
một người thói hư không tốt, ở trong vô hình được hóa giải
đi, dưới đây là sự thật một gương mẫu không thể nghĩ bàn.
Anh Lâm này nghiện thuốc đã mười mấy năm, một
ngày phải hút thuốc thơm ít nhất một gói rưỡi. Sau khi tốt
nghiệp đại học đã quyết tâm nhiều lần muốn cai thuốc, bởi
vì tự hiểu được hút thuốc đối với sức khỏe có hại. Trước
khi nhập ngũ đã cai một lần, vì phải chạy bộ luyện tập sức
khỏe, trong thời gian hai tháng; lần thứ 2 là trước khi kết
hôn, vì muốn cưới được cô vợ hiền này, anh ta lại một lần
đồng ý cai thuốc, rất vất vả chống cự nửa năm, lại bị bạn
làm ăn ảnh hưởng mà phá giới; lần thứ 3 là trao đổi điều
kiện với vợ đồng ý cho anh ta mua xe, thấy rõ cai thuốc đã
được một năm, nhưng vẫn là không chống chọi lại cơn
nghiện thuốc, mà vẫn lén hút trộm. Ba năm rưỡi trước, vào một buổi tối, anh ta được dẫn đến một Phật đường lớn cầu
đạo, theo anh ấy nói căn bản là không nhớ được cầu cái đó
là gì, tại vì lúc đó trong tâm trí muốn ra ngoài hút thuốc, ở
trong Phật đường 2 - 3 tiếng đồng hồ không thể hút thuốc,
làm cho anh ta khó chịu vô cùng.
Nửa tháng sau gặp một nhân duyên, anh Lâm đi tham
gia hai ngày pháp hội. Vốn dĩ cho là không cách nào chống
nổi hai ngày không hút thuốc, song nói cũng kì lạ, “Hai
ngày đó lại không thèm hút, làm như không có chuyện đó,
cũng không phạm vào nghiện thuốc, tinh thần cũng rất tốt,
có thể là tôi quá chú tâm nghe giảng, nghe tới quên đi
chính mình”. Sự việc xảy ra càng không thể nghĩ bàn theo
lời anh Lâm tự mình nói ra “Ấn tượng sâu sắc nhất chính là
tiết giảng ‘Ý nghĩa của trì chay và lợi ích’, chỉ nhớ giảng
sư nói ăn chay là bản năng của người, con người vốn là
không nên ăn thịt, cũng như con người vốn dĩ là không biết
hút thuốc, hà tất cứ nắm chặt không buông nhỉ? Trong tâm
tôi đã âm thầm nói với Phật Tổ, ‘Được! Bắt đầu ngày mai
tôi không hút thuốc nữa, không thể làm nô lệ thuốc nữa!” Như vậy là ngày hôm sau bắt đầu, anh Lâm đã không hút
thuốc nữa, vả lại không phải cai thuốc mà là “đoạn thuốc”. Anh Lâm nói “Từ lúc đó bắt đầu đến nay đã hơn ba năm
rồi, ngay cả lên cơn nghiện thuốc cũng không có, không có
nghiện làm gì có muốn hút đây?” Cùng một kì tích sự việc lại xảy ra ở một người bạn học của anh Lâm. Anh Trần, là do anh Lâm độ đến Phật
đường cầu đạo, anh Lâm lấy kinh nghiệm của chính bản
thân mình, sau khi cầu đạo có một sức mạnh không thể
nghĩ bàn, mà giới trừ đi tật xấu mười mấy năm hút thuốc,
thuyết phục được anh Trần cầu đạo. Dùng tâm niệm giống
nhau “Vốn dĩ là không biết, hà tất phải khổ cực nắm chặt
không buông?” Lại nói thêm, nếu như có cơn nghiện thì
dùng tam bảo để hàng phục dục vọng. Cách này quả nhiên
có hiệu quả, anh Trần cũng hạ quyết tâm, sau hai ngày đã
dễ dàng “chặt đứt” cơn nghiện thuốc, từ đó không còn khởi
tâm muốn hút thuốc nữa. Sự thật này gần như là nơi
phương Trời và ánh trăng dưới đầm, nói ai nghe ai nấy đều
không thể tin, nhưng sự thật vẫn là sự thật, chúng ta không
thể không tin. Đây là sức mạnh gì? Đương nhiên là sau khi
cầu đạo đối với đạo có lòng tin, vả lại thường xuyên tiếp
cận Phật đường, tiếp nhận rửa tội của Phật quang phổ chiếu,
toàn thân rất nhiều thói hư sẽ dần dần được thay đổi, chỉ
cần có lòng, tự có sức mạnh trợ giúp hóa giải.
Câu chuyện thứ tư:
Một vị đạo thân họ Chu, quá khứ là một người rất dễ
khẩn trương, có thể nói là một ngày 24 tiếng đều trong
trạng thái tinh thần cau có, không chỉ là khẩn trương trong
việc làm, luôn cả đi bộ, ngồi xe, nghĩ ngơi… bất luận giờ
nào cũng phát hiện tay anh ta nắm chặt lại, nắm chặt đến rỉ ra mồ hôi. Tuy luôn luôn nhắc nhở mình phải thả lỏng,
nhưng tâm khẩn trương đã trở thành trạng thái phản xạ của
tiềm thức, không cách nào khống chế được. Anh Chu tự mình mở ra một công ty điện tử nhỏ, mỗi
buổi sáng đều đến công ty trước nửa giờ, chăm chú nhìn
nhân công có đến trễ không, có làm biếng không; sau đó
suốt ngày với tinh thần cau có, làm cho tánh tình hay nổi
cáu, động một chút là hét to lên, cũng không biết đang
phiền não gì, cứ là mặt mày nhăn nhó khổ sở cau có, công
nhân nhìn thấy anh ta giống như nhìn thấy ma quỷ, tránh
được thì tránh, không một người nào chịu ăn cữ cơm với
anh ta. Ban đêm mất ngủ là chuyện bình thường, rất khó
vào giấc ngủ, lại hay giật mình thức dậy, dù cho đã ngủ say,
thân thể vẫn là siết chặt; sáng hôm sau thức dậy, mệt mỏi
tựa như suốt đêm không ngủ vậy, trải qua thời gian, toàn
thân đương nhiên đều sanh bệnh.
Vì muốn giải tỏa tâm rối bời của mình, anh Chu đã
làm thử mọi cách: tĩnh tọa, niệm Phật, vận động… đều
không cách nào khắc chế tâm gấp gáp không yên của mình.
Cho đến khi được cầu đạo, giảng sư nói với anh ta, tam bảo
có thể giúp giải quyết vấn đề khổ não này. Do đó, anh ta
dụng tâm đi nghiên cứu, cũng thử sử dụng tam bảo lúc thần
kinh căng thẳng hoặc để hàng phục vọng tâm của mình.
Kết quả, anh ta rất kinh ngạc phát hiện dùng tam bảo có
hiệu quả rất lớn đối với tâm trạng bực tức. Từ đó anh Chu bắt đầu biết dùng giọng nói ôn hòa hơn để nói chuyện,
cũng nhờ từ nơi Phật đường nghe đạo lý, biết được làm
một người đạo thân, biểu hiện căn bản nhất đó là quan tâm
đến người khác, cho nên, từ rất miễn cưỡng cho đến rất tự
nhiên, anh Chu đã biết quan tâm ý kiến của công nhân và
khách hàng, thậm chí buổi trưa biết chủ động đi mua cơm
hộp về mời công nhân ăn, khó thấy nội bộ công ty có bầu
không khí ấm cúng này, đương nhiên tình hình công việc
của công nhân được nâng cao hơn, năng suất nhiều hơn, tự
nhiên sự nghiệp được thành tựu lớn lao trước đây chưa hề
thấy.
Quan trọng hơn nữa, là tâm trạng lo lắng bất an của
anh Chu cũng dần dần được giải trừ đi, hiện tượng nằm mơ
ác mộng cũng không còn nữa, sức khỏe cũng tốt hơn, tất cả
mọi thứ đều cải thiện. Anh ta nói “Thật là quá ảo diệu rồi!
Cầu đạo được tam bảo quả là cứu sự nghiệp của tôi đấy. Nếu như không phải cầu đạo, tinh thần tôi có thể đã sụp đổ, sự nghiệp cũng kết thúc rồi!”
0 nhận xét:
Đăng nhận xét