• MÓN ĂN CHAY DINH DƯỠNG
  • HỎI ĐÁP VỀ VẤN ĐỀ ĂN CHAY
  • NHỮNG CÂU CHUYỆN LUÂN HỒI ĐẦY BÍ ẨN
  • Người theo dõi

    Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2016

    Di Lặc cứu khổ chân kinh


    Di Lặc cứu khổ chân kinh

    Lúc bấy giờ, Kinh này vẫn chưa lưu truyền xuống, cũng là vì thời kỳ chưa tới. Mãi đến lúc Kim Công Tổ Sư vào năm Dân Quốc thứ 15, ngày 3 tháng 3 hiển hoá mượn khiếu thổ lộ ra. Kim Công Tổ Sư chính là Tổ Sư đời thứ 17, tức Bạch Dương Tổ Sư, Minh Sư Lộ Trung Nhất , người tỉnh Sơn Đông, huyện Tế Ninh, sinh vào năm thứ 29 Thanh Đạo Quang, tức là trước năm 63 ( năm 1849 ) Tuế Thứ Tị Dậu ngày 24 tháng 4 đản sinh vào giờ ngọ, là hoá thân của Di Lặc Cổ Phật, thánh hiệu “ Nho đồng Kim Công “, chúng ta gọi ngài là “ Kim Công Tổ Sư ”, đạo hiệu “ Nam Mô Thiên Nguyên Thái Bảo A Di Đà Phật “. Dân Quốc năm thứ 14 ngày 2 tháng 2 ngài thành đạo, Dân Quốc năm thứ 15 ngày 3 tháng 2, ngài mượn khiếu của Dương Xuân Linh ở Sơn Tây đến Sơn Đông hiển hoá 100 ngày. Trong vòng 100 ngày này không ăn gì hết, miệng nói “ Kim Công Diệu Điển “ và “ Di Lặc chân kinh “ , đấy là “ Kim Kê sơ xướng ( Gà vàng gáy lần đầu ), quyển “ Di Lặc Chân Kinh “ mới xuất hiện trên đời. Năm Dân Quốc thứ 18 lại mượn khiếu của Đỗ Ngọc Côn ở Hà Nam, hiển hoá 1 tháng trời, đấy là “ Kim Kê nhị xướng “. Còn khi “ Kim Kê tam xướng “, Lão Tổ Sư sẽ đích thân đến bình thu vạn giáo, tức là vạn pháp quy nhất, thiên hạ sẽ thái bình. 

    Phật thuyết Di Lặc cứu khổ kinh

    Thời điểm Di Lặc Tổ Sư giáng sinh lần đầu tiên là 2500 năm về trước, xuất thân ở nước Ba La nại thuộc miền Bắc Ấn Độ. Cha của ngài là thừa tướng của nước Ba La Nại, Di Lặc là Sao Bắc Vương Chân Võ hạ phàm chuyển thế, cũng chính là giáo chủ của Vạn giáo quản trưởng thiên bàn trong tương lai. Quốc Sư của nước Ba La Nại ( Pháp sư Bà La môn giáo ) biết xem thiên văn, biết được sự việc này nên sinh lòng ghen ghét đố kị, ngụy tấu với Quốc Vương rằng : Trong số Những đứa trẻ sinh ra ở Nước ta hôm nay vào 3 canh giờ Tý Sửu Dần sẽ có một đứa là do sao Ác Ma đến đầu thai, sau này lớn lên sẽ tranh giành giang sơn với Quốc Vương, nên cần phải diệt trừ. Quốc Vương tin nghe lời nói của Quốc Sư, ngay lập tức hạ một đạo Thánh chỉ cho các Phủ Châu Huyện của cả nước phải giết chết tất cả những đứa trẻ sinh vào 3 giờ tý Sửu Dần của ngày hôm nay. Thế nhưng Thừa Tướng phu nhân cũng hạ sinh Di Lặc vào thời gian này cho nên sau khi nghe bẩm báo thì Thừa tướng và phu nhân đều rất lo lắng không yên. Phu nhân ngay lập tức kêu em trai mình đưa Di Lặc trốn ra nước ngoài, nhanh chóng nhắc Thừa Tướng hạ lệnh phái 16 vị Võ Tướng hộ pháp cả đêm xuất Quan ải đem trốn ra nước ngoài nuôi nấng. Đến khi 7 tuổi, dì của Di Lặc dẫn ngài và 16 vị tùy Tướng đi theo cùng đến tham bái đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Sau khi thọ ký xong, chỉ duy nhất ngài Di Lặc là không tính vào hàng đệ tử, bởi vì Phật Thích Ca Mâu Ni biết rằng ngài Di Lặc chính là vị Tổ sư 3000 năm sau sẽ hạ thế chưởng Thiên Bàn và thâu viên. Lúc bấy giờ, Phật Thích Ca bắt đầu giảng thuật lại 3000 năm sau Di lặc sẽ hạ thế cứu khổ cứu nạn, phổ độ 96 nguyên nhân phật tử. Tất cả mọi người vào thời điểm đó phải tái hạ thế chuyển sanh làm người để được ngài thọ ký mới có thể thật sự thoát khỏi phàm trần, miễn khỏi lưu lạc trong bể khổ sinh tử luân hồi lần nữa. Cái này rất quan trọng bởi vì sau 3000 năm nếu không chuyển thế hạ phàm để được Di Lặc Phật thọ ký thì chúng ta sẽ không có cách nào thoát ly sinh tử luân hồi. Cho nên đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói lúc bấy giờ để giải thích rõ vào thời Tam Kỳ Mạt Kiếp Di Lặc Tổ Sư sẽ quản chưởng Thiên bàn, tiếp nhận một đường Kim Tuyến đại đạo truyền trong thời Tam Kỳ Mạt Kiếp. Đấy gọi là bàn việc Mạt Hậu Nhất Trước Thâu viên đại sự, phụng thừa lệnh của Lão Mẫu mà đại khai phổ độ, bắt đầu từ trung Quốc phổ truyền các nước trên toàn cầu. Đoạn này là một đoạn mà 2500 năm về trước đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói đến, điều đó cũng chứng minh rằng 2500 năm về sau, Phật Di Lặc vào thời Tam Kỳ Mạt Kiếp sẽ đến nhân gian, trên trời thì quản chưởng Thiên bàn, nơi trần gian thì bàn chuyện Thâu Viên Đại sự, cho nên mới gọi là Phật nói. Cho nên bộ kinh này là bộ kinh do Phật nói, không phải lả người bình thường tùy tiện viết ra.

    Ở trên là kinh do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói đến 2500 năm về trước. Tiếp theo là Quyển Di Lặc Cứu Khổ Chân Kinh lại có một bối cảnh nhân duyên khác.

    Đông Phương Tổ Sư đời thứ 17 là Kim Công Tổ Sư, tôn hiệu là Nam Mô thiên Nguyên Thái Bảo A Di Đà Phật, cũng có nghĩa rằng Đức Phật Di Lặc đã đến nhân gian rồi, cũng có nghĩa là thời điểm mà 2500 năm về trước Đức Phật thích Ca Mâu Ni từng nói đến nay đã tới rồi. Đông Phương Tổ Sư đời thứ 17 là Kim Công Tổ Sư chính là do đức Phật Di Lặc hóa thân chuyển thế vào sau công nguyên năm 1849, năm Tuế Thứ Kỷ Dậu tuổi gà, nên mới có câu nói là Kim Kê Tam Xướng.  

    Kim Kê Nhất Xướng năm 1926 sau công nguyên : ngày 2 tháng 2 năm 1925, Lộ Tổ Sư quy không,đến ngày 3 tháng 3 năm 1926 tức là 1 năm sau, Lộ Tổ mượn khiếu của cô Dương Xuân Linh ở Tỉnh Sơn Tây đến Sơn Đông Tế Ninh hiển hóa, tổng cộng 100 ngày không ăn không uống, miệng nói Kim Công Diệu Điển và quyển Di Lặc Cứu Khổ Chân Kinh này để truyn lại cho thế gian. Cho nên quyển Di Lặc cứu khổ chân kinh này không nằm trong bộ Đại tạng Kinh mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng nói. Cho nên trong Kinh Điển không thể tìm thấy bộ kinh nay. Nhưng lúc nãy chúng ta có đ cập đến 2500 năm trước đây đức Phật Thích Ca từng nói đến. Đồng thời, trong 100 ngày đó, hai tay của cô Dương Xuân Linh cầm 2 cây bút lông cùng một lúc viết nên 2 câu đối bằng chữ Triện. Cách viết thếnày : 2 tay cầm 2 cây bút lông rời xa mặt giấy, mực rớt từ trên cao xuống, sau đó thì thành 2 câu đối :

    Phong xúy Trúc Diệp long vũ trảo
    Vũ đả hà hoa phụng điểm đầu.

    Dương Xuân Linh 100 ngày sau thì được Kim Công Tổ Sư đưa v trời.
    Đây gọi là kim Kê nhất xướng ( gà vàng gáy lần thứ 1 )

    Trải qua 3 năm sau thì kim kê Nhị xướng : Năm 1930 sau côn nguyên, Tổ Sư lại mượn khiếu của một người ở Hà Nam tên là Đỗ Ngọc Khôn từ Hà Nam chạy đến Sơn Đông. Lúc bấy giờ không có máy bay hay xe để ngồi, ở Sơn Đông ngài lại độ hóa và thành toàn đạo thân, sau đó người này lại biệt tăm biệt tích, không một ai biết là đã đđâu.
    Như vậy, ở Trung Quốc Đại Lục lúc bấy giờ do có rất nhiu hiển hóa nên đã có rất nhiu người cầu Tam Bảo.

    Sau này Kim Kê Tam xướng là phải đợi đến lúc Đại Đạo minh hiển, mọi người đu có đạo, Thế giới đạiđồng thì những người tu đạo mà có công đức sẽ vừa được hưởng hồng phúc vừa được hưởng thanh phúc ( thành thánh hin tiên phật ), lúc đó sẽ không còn địa ngục nữa, Sau khi ở nhân gian thì lại quay v Thiên Đàng. Cho nên chúng ta rất có Phật duyên mới gặp được Phật xuất thế, nghĩa là chúng ta đã theo kịp thời đại mà Phật Di Lặc đến thế gian để độ hóa chúng sanh. Bây giờ chúng ta bắt đầu đi sâu vào bài kinh.

    Di Lặc hạ thế bất phi khinh

    Vào thời Bạch Dương k Di Lặc giáng thế, nghĩa là thời Tam K Mạt kiếp , vào thời này tại sao Di Lặc phải hạ thế ? vì tai kiếp của chúng ta ngày càng nhiu và nghiêm trọng, cho nên Phật từ bi muốn chúng ta nhanh chóng bình an v nhà, cho nên đây là một chuyện rất trọng đại chứ không phải là chuyện bình thường. Lúc chúng ta cầu tam bảo có lẽ chúng ta vẫn chưa chú ý đến, cái đoạn lúc màđiểm truyn sư bàn đạo có phó chúc Mạt hậu nhất trước tích vị ngôn, Minh nhân tại thử tố nhất phiên. Ngu phu thức đắc hoàn hương đạo, sanh lai tử khứ kiếđương tin. 

    Nghĩa là : trước đây chưa bao giờ nói đến chuyện đại sự sau này. Minh nhân chính là Sư Tôn và Sư Mẫu của chúng ta khi thỉnh đàn có đến nói rõ cho chúng ta : tuy chúng ta đều là những người bình thường, nhưng nếu chúng ta có cầu qua tam bảo thì biết được phải đi con đường như thế nào để có thể về trời. Chúng ta đã có cầu qua tam bảo đều biết được bảo thứ 1 chính là chỗ sống chết tức thì.Cho nên nếnhững ai chưa cầu tam bảo thì dù chúng ta có nói với họ, họ cũng chẳng hiểu. Trong Kinh Di Lặc cứu khổ chân kinh đu nói v việc chúng ta làm thế nào để v trời, chúng ta phải cầu Tam Bảo. Trong đó đu có thiên cơ.  
    Lãnh bửu Tề Lỗ Linh Sơn Địa

    Lãnh có nghĩa là Minh sư thọ lãnh lệnh của Lão Mẫu, truyn thụ khẩu truyn tâm ấn, Tam Bảo ( Quan, quyết, ấn ) , xuất thân ở T Lỗ, tức là Sơn Đông hiện nay, là thánh địa mà từ xưa có nhiu Thánh Nhân xuất hiện nhất, cho nên Tổ sư lãnh thiên mệnh truyn thọ mệnh cũng đu xuất thân ở Sơn Đông ( nhiu nhất ) , như Tổ sư đời thứ 17 , Lộ Tổ chính là xuất thân ở Sơn Đông huyện Tế Ninh. Tổ sư đời thứ 18, Sư Tôn của chúng ta cũng xuất thân ở Sơn Đông huyện Tế Ninh. Sư mẫu cũng xuất thân ở tỉnh Sơn Đông. Thế nhưng những người thọ mệnh thì ở Linh sơn địa của mỗi người.

    Phật tại linh sơn mạc viễn cầu
    Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
    Nhân nhân hữu cá linh sơn tháp
    Hảo hướng linh sơn tháp hạ tu

    Cái này lúc chúng ta cầu tam bảo đã biết rồi. Linh sơn địa chính là huyn quan khiếu của mỗi người. Thông qua Minh sư nhất chỉ điểm mở ra chỉ cần tu thật tốt ở núi Linh Sơn ( chính là bổn tâm ), tu tâm luyện tính, hành công lập đức, khi tuổi thọ đã hết, linh tánh tự nhiên sẽ đi ra từ cửa chính, miễnđược phải chịu nỗi khổ luân hồi, có thể quy căn phục mệnh . Đây là bài thơ ám chỉ của Quan Thế Âm Bồ Tát dùng để nói với tất cả những người tu hành, ý nói rằng tất cả mỗi người chúng ta đu có một núi Linh Sơn và không nhất thiết phải đđến nơi xa xôi để cầu. Nhưng nếu mình chưa cầu qua tam bảo thì mình cũng không có cách nào biếđược làm thế nào để tu ở dưới tháp Linh Sơn. Điu này cũng có nghĩa rằng Quan Thế Âm Bồ Tát trước đây cũng từng có cầu tam bảo do sư phụ truyn cho, nhưng do đây là thiên cơ bất khả lộ nên Quan Thế Âm Bồ Tát cũng không dám tiết lộ, nhưng Quan Thế Âm Bồ Tát từ bi rất muốn cho mọi người biết nên mới viết lưu lại bài thơ này, chỉ là xém một chút chút, nhưng tuy xém một chút chút mà không có Minh Sư nhất chỉ điểm thì cũng không có cách nào. Hiện nay là thời k phổ độ nên chúng ta có thể lấy ra nghiên cứu. 


    Niêm hoa ấn chứng khảo tam thừa
    Tam thừa bao gồm Thượng thừa, trung thừa và hạ thừa. Câu này nghĩa là thời xa xưa muốn đắc đượcđại đạo bảo quý đâu phải dễ dàng như vậy, phải thông qua tu tập từ Tiểu thừa lên đến Trung Thừa rồiđếđại thừa mới ngộ ra được huyn cơ, biếđược nơi cư ngụ của linh tánh mới được Minh Sư thọ ký cho, đấy gọi là Thượng đẳng tu hành ngộ giác tính, trung đẳng tu hành chấp văn tự, Hạ đẳng tu hành trọng hiển hóa, Mạc chấp hình tượng quy tự nhiên. Nghĩa là đạo pháp tự nhiên. Cho nên lúc bấy giờ khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyn thụ là đơn truyđộc thụ. Trước tiên phải dùng phương pháp thăm dò, dùng pháp niêm hoa vi tiếu , tuyển chọn vật truyn thụ.

    Đây là chỉ lúc đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang giảng đạo ở núi Linh Khứu Sơn. Lúc bấy giờ có rất nhiuđệ tử đang nghe kinh trong lần mở pháp hội thứ 16, có hơ3000 đệ tử và đức Phật cầm một đóa hoa mỉm cười. Cả hơn 3000 đệ tử đu không hiểu được ý của ngài, sau đó đại đệ tử là ngài Ma Ha Ca Diếp hiểu được ý bèn mỉm cười, cho nên đức Phật Thích Ca bèn truyn chánh pháp và y bát cho đại đệ tử Tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Trong lúc truyn tam bảo, đức Thế Tôn nói : “ Ngô Hữu chánh pháp nhãn tàng, Niết Bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyn , kim phó chúc Ma Ha Ca Diếp ...”

    Chánh pháp ở đây chính là tam bảo. Chúng ta đu biết bảo thứ 1 là Huyn Quan Khiếu. Trong giáo gọi là giáo ngoại biệt truyn, trước đây giảng kinh thuyết pháp rất nhiu, nói rất nhiu các giáo pháp nhưng bên trong đó đu không có cách nào nói đến diệu pháp này. Do đó, xưa kia phải tu trước rồi ngộ ra được chỗ thin cơ sau đó mới đắc chân truyn. Hôm nay, chúng ta đắc trước tu sau, nhẹ nhàng hơn nhiu rồI nên mới nói 

    Đạp phá thiết hài vô mịch sứ
    đắc lai toàn bất phí công phu

    Đi mòn nát cả đôi giày thép cũng không có cách nào tìm thấy
    Đắc được rồi nhưng hoàn toàn không phí tí công phu


    Tuy rằng chúng ta dễ dàng mà đắc được nhưng chúng ta phải đi từng bước vững chắc, chăm chỉ tu luyện chứ không biếng lười, trước sau không ngừng, sau này nhất định có thể ấn chứng, từ công quả ít nhiu, trải qua khảo nghiệm thành công mà được liệt vào quả vị tam thừa cửu phẩm liên đài. Cho nên muốn có quả vị là chúng ta phải bắt đầu tu từ bây giờ. Tương lai liên phẩm của mình cao to như thế nào là phải xem mình kiếp này làm như thế nào

    Lạc tại Trung Nguyên tam tinh địa

    Niêm hoa ấn chứng sự chân truyn quý báu như vậy rơi vào chỗ nào ? rơi vào nơi Tam Tinh Địa. Tam Tinh Địa là ở Trung Ương Mậu Kỷ Thổ chính giữa thân người ( Trung Nguyên ) , nơi phương thôn bảođin, còn gọi là Linh Sơn Địa, Huyn Quan Khiếu, cũng chính là 3 người đồng hành tất sẽ có người là thầy của chúng ta, chính là chỗ mà ta phải hạ công phu tu luyện, chính là chỗ mà ta có thể tương thông với trời. Chỗ mà trời tương thông với chúng ta chính là chỗ mà chúng ta bắt đầu có tinh, khí,thần. Từ phương thôn bảo địa này hướng lên trên thì là trời, hướng v cơ thể của chúng ta đi xuống thì là tinh, khí, thần. Trong kinh kim cang có nói : Như thị chú, như thị giáng phục k tâm, vô sở trú nhi sinh k tâmTất cả đu là quy ở Tam Tinh Địa. Thanh Tịnh Kinh viết : Tuy danh đắc đạo, thật vô sở đắc.  

    Đại chứng Tứ Xuyên Vương Đào Tâm

    Nhân đắc nhất vi đại, từ chỗ này có thể chứng phật chứng Thánh, Kinh Kim Cang chỉ thị “ Xá Vệ Thành “ chính là giữa mắt, tai, mũi, miệng, khiếu chính giữa của thất khổng bát khiếu. Do đó tu đạo phải đóng bốn cánh cửa sổ này lại.
    Bên ngoài thân người có 3 con sông : tham, sân, si ; bên trong gồm có : tinh, khí, thần
     cho nên tu đạo phải phản bổn quy nguyên đi ngược dòng, tìm kiếm dòng chảy thứ 4 ). Không nên chảy vào con sông dục vọng. Con sông này chính là để chúng ta  Quay đầu là bờ thì mới tìm được cái tánh Vương của chúng ta. . Vương là lấy tánh Vương làm trọng. Tánh vương như cái lõi ( ruột ) của quả đào và là hạt giống. Ruột quả đào nếu bị hư hoại thì không thể mọc rễ nảy mầm, không thể nào lớn lên và kết ra quả ( cho nên tu đạo phải tìm kiếm thiên tâm, bản tâm ). Lương tâm của con người cũng như lõi ( nhân ) của quả đào vậy. Mạnh Tử nói : người không có trắc ẩn tri tâm thì không phải là người, không là người tức là tứ sanh.
    Cho nên đấy là để ấn chứng cho chúng ta làm thế nào để tìm được tánh vương của mình, làm thế nàođể quay đầu là bờ và phải tu như thế nào.

    Thiên Chân thu viên quải Thánh hiệu

    Vào thời k ứng vận này, 2 vị Phật Thiên Chân chính là nói v Sư Tôn, Sư Mẫu của chúng ta, tức là Thiên Nhiên Cổ Phật và Tố Chân Cổ Phật, lãnh thiên mệnh phổ độ 96 nguyên phật tử, hiệp trợ Di Lặc Tổ Sư thâu viên. Khi chúng ta đến cầu Tam Bảo đu phải đến chỗ của Sư Tôn Sư Mẫu để quải Thánh Hiệu ( quải thánh hiệu là đăng ký, đăng ký tên trên thiên đường và rút bỏ tên dưới địa phủ ), đó là một thủ tục cầu Tam Bảo của trời, phải có Thiên Mệnh Minh Sư đăng ký cho.
    Sau khi đăng ký xong mới được vào cầu Tam Bảo. Đăng ký xong thì lại phải chờ đến lúc điểm thần binh. Bởi vì đăng ký xong thì phải bắt đầu thỉnh đàn mời Lão Mẫu, Chư Thiên Tiên Phật và tất cả thần thánh đđến Phật đường, cho nên gọi là điểm thần binh.







    Đẳng đãi thời chí điểm thần binh

    Đợi đến khi mạt kiếđến thì đại đạo cũng giáng thế, cho nên đại đạo phi thời bất giáng. Đến thời điểm này cũng chính là thế giới Phật và Ma, vì đang vào thời k thanh toán Hạ Nguyên Giáp Tử, đồng thời Tam tào phổ độ, có thể nói trên quả địa cầu này đu rất loạn, tất cả đu muốn đến cầu đạo, có khí thiên thần đến tìm người có duyên để siêu bạch, Tổ Tiên của mỗi người cũng tranh thủ muốn được con cháu mình siêu bạch, chủ nợ cũng tranh thủ tìm đếđòi nợ, cho nên truyđạo phải rất nghiêm túc thận trọng. Phải có Thiên Mệnh Minh Sư ( Điểm truyn sư thay thế cho thầy ), dựa vào thiên mệnh để thỉnh đàn, thay Lão Mẫu tuyên chỉ, thỉnh chư thiên thần thánh đếđàn, nhị thập bát tú hộ pháp đàn, mới có thể bắt đầu bàn đạo, điểm truyn tánh lý tâm pháp, truyn thụ tam bảo.

    Vân lôi chấn khai mậu kỉ thổ

    Lúc đó, sau khi thỉnh đàn xong, Tiên Phật đếđầy đủ để hộ pháp đàn,  thì thầy của chúng ta bắt đầu truyn cho bảo thứ nhất. Vân tức là nước, Lôi tức là hỏa, lúc chúng ta vẫn chưa ra khỏi bào thai thì vẫn là càn khôn chính vị. Sau khi trong bào thai đầy 10 tháng và sinh ra ngoài thì cái điểm Tiên Thiên Khí này sẽ từ Huyn Quan Khiếu mà nhập vào trong cơ thể, từ đó trở đi thì điểm Huyn Quan Khiếu của chúng ta bị đóng lại, không có cách nào từ cánh cửa này để quay v trời. cho nên nếu không do Minh Sư điểm khai mở ra thì là cánh cửa không có cửa. Chỗ Huyn Quan Khiếu xem ra thì như là không có cửa nhưng thật ra là có một khiếu thông thiên, cho nên chấn khai Trung Ương Mậu Kỷ Thổ chính là ý : cái vô phùng Khóa của Minh Sư mở ra Huyn Quan khiếu chính là đã mở ra món bảo vô giá. Nên gọi là : Huyn Quan Khiếu là Bồng Lai đảo, đả khai tựu thị vô giá bảo.
    Quan Thánh Đế Quân nói : Vô phùng tỏa khai khai, chân nhân hiện xuất lai, chân kinh lao lao ký, hài tử bao tại hoài.

    Thiên hạ thần quỷ bất an ninh

    Cái tam bảo quý giá như vậy, có thể siêu sanh liễu tử, cho nên kinh động quỷ thần trong thiên hạ, khiến họ cũng phải gấp rút tìm kiếm người có duyên với mình trước đây để siêu bạch giùm. Đương nhiên nếu con cái của mình đang tu đạo thì siêu bạch dễ dàng, nếu không vẫn phải đi tìm người có duyên, cho nên khi còn thân người thì phải nhanh chóng mà cầu Tam Bảo, thành tâm mà tu luyện, vì Tổ Tiên của mình cũng đang chờ đợi không yên, k vọng đđặt lên người của con cháu, vì đại đạo Phi người bất truyn ( gặp không đúng người thì không truyn ). Thần và quỷ vẫn còn nằm trong lụcđạo luân hồi, chưa được siêu sanh liễu tử, cho nên họ đu rất khẩn trương bất an.
    Cho nên, Nhất tử cầu đạo, cửu huyn thất tổ đồng chiếm quang. Nhất tử thành đạo, cửu huyn thất tổ đồng siêu sanh. Trước thời mạt kiếp nếu không đắc được đạo, đến khi thời điểm tới rồi thì mọi thứ coi như xong, khó trách thần quỷ cũng bất an mà đứng ngồi không yên.

    Thân tại nhân thiên trung hoa mẫu

    Thân nghĩa là thân cận. Sau khi thông qua đắc đạo, khi Tý Hợi tương bao ( hợp đồng chữ Hài ), mới phát giác tưởng nhớ đến Lão Mẫu trên trời, cũng mới biếđược trên trời còn có một người Mẹ sinh ra linh tánh của chúng ta, cho nên người thân nhất vẫn là người mẹ trên trời của chúng ta. Nhân chính là lõi của trái đào ( tánh của người ), Trung Dung viết “ Thiên mệnh chi vị tính “. Điểm linh tánh này là từ trên trời giáng xuống thế gian, trước đây chúng ta đu ngộ nhận là do địa phủ chuyển sinh, cho nên người đời mới nói : Dương gian chết một người thì Địa Phủ thêm một con quỷ, lại nói người chết là qua đời. Hôm nay đại đạo giáng ở Trung Hoa Dân Quốc, cho nên Sư Mẫu của chúng ta mới xưng là Trung Hoa Thánh Mẫu, chúng ta phải theo đường kim tuyến của Sư Tôn Sư Mẫu mà tu thật tốt.

    Cửu liên thánh giáo quy thượng thừa

    Câu này là chứng minh tam bảo mà chúng ta cầu hôm nay có thể chứng Thánh giáo Cửu Phẩm Liênđài sau này, cũng là quy v pháp môn tối thượng thừa ( cao nhất ) . Thánh giáo nghĩa là tánh lý tâm pháp, khẩu truyn tâm ứng, theo Kinh Long Hoa chứng minh : Thiên Chân thu viên bất phi khinh, thập tự thác cửu liên kinh, cửu tự nhai tin bả hiđiệu, cửu liên khai ư bái Vô Sinh.
    Cửu phẩm liên đài muốn nở hoa thì nhất định phải tìm được Vô sinh Lão Mẫu, chính là gốc rễ, nếu không có gốc rễ thì không thể khai hoa. Nếu hoa sen không có gốc rễ thì không có cách nào nở hoa. Sư Tôn Sư Mẫu bàn thu viên Tam Tào phổ độ xưa nay chưa từng lơ là khinh xuất, thập tự giá được 1điểm thì có thể chứng cửu phẩm liên đài

    Thiên hoa lão mẫu thuỳ ngọc tuyến

    Thiên có nghĩa là Lý Thiên, Hoa có nghĩa là hoa sen, 96 nguyên linh giống như từng đóa từng đóa hoa sen vậy. Lão Mẫu từ bi muốn cứu độ 96 Nguyên Linh, cho nên mới giáng một sợi Kim Tuyếđại đạo, cũng chính là Di Lặc cứu khổ Chân Kinh và Tam Bảo. 

    thu viên hiển hoá tại cổ đông

    Tam kỳ ứng vận của thời kỳ này, tam tào phổ độ, cũng chính là kỳ cuối cùng nhất Mạt hậu nhất trước, hiện nay ngày thu viên sắp đến, cũng chính là lúc đạo và kiếp đồng giáng, đại đạo giáng xuống nước cổ Đông Thổ ( Đông Phương Cổ Đại – Đài Loan ), ở chỗ Trung Hoa Thánh Địa Sơn Đông. Vào lúc đó  cũng như hiện nay đều có rất nhiều loại hiển hóa đang hiển thần thông để cứu kiếp, độ 96 nguyên nhân về trời. Ở Đài Loan đều có rất nhiều tiên phật đến giúp đỡ, và hiện nay cũng có rất nhiều Tiên Phật đến giúp đ, giúp cho mọi người đều có thể cầu được Tam Bảo

    Nam Bắc lưỡng cực liên tông tự         
    Cái chánh pháp nhãn tàng, bất nhị pháp môn của Phật giáo là do Đạt Ma Tổ Sư truyền từ Ấn Độ đến Trung Quốc, cho đến sau Tổ Sư Ngũ Tổ Hoằng nhẫn thì chia làm Tông phái 2 nhà Nam Bắc. Phương Nam do Lục Tổ Huệ Năng truyền cho đốn pháp, tánh lý tâm pháp khẩu truyền tâm ấn, nghĩa là đắc đạo trước rồi mới tu đạo sau, chính là tu Di Lặc “ Nhân gian tịnh thổ “, từ hậu thiên quay về tiên thiên, pháp môn tu tại gia từ nhân đạo mà đạt đến thiên đạo.
    Phương Bắc do Thần Tú truyền cho tiệm pháp, tiên tu hậu đắc, tu Di Đà “ Tây Phương Tịnh Thổ “ , chủ yếu là niệm kinh vãng sanh Tây Phương cực lạc thế giới.
    Hai pháp môn : đốn pháp và tiệm pháp bây giờ phải liên kết lại với nhau.
    Đạt Ma Tổ Sư có bài thơ làm chứng : Đạt Ma tây lai nhất tự vô, toàn bằng tâm ý dụng công phu, nhược tùng chỉ thượng tầm phật pháp, bút can trám cạn động đình hồ.
    Lại viết : Ngô bản lai từ thổ, truyền pháp độ mê tân, nhất hoa khai ngũ diệp, kết quả tự nhiên thành. ( Ta đến từ nơi này, truyền pháp độ chúng sinh mê muội, Thời đại này bất kỳ Nam Tông hay Bắc Tông hay ngũ giáo trước đây đều phải quy về một. Kết quả là vạn pháp đều phải quy nhất.
    Thiên cơ văn của Di Lặc Tổ Sư viết ; tẩu mã điểm huyền canh hi thính, thiên môn tả bàng tề quy nhất. Lúc đó, thu viên hiển hóa không chỉ Nam Bắc nhị tông.

    hỗn nguyên cổ sách tại trung ương

    Cái cổ sách này chính là cái điểm linh tánh của mỗi người, là do từ trên trời giáng xuống đi vào bên trong Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Huyền Quan Khiếu. Chỗ xa xưa nhất chính là chỗ Trung ương mậu kỷ thổ của chúng ta, cũng chính là Huyền Quan Khiếu của chúng ta, cho nên chúng sanh giai hữu phật tánh, cũng đều do một mẹ sinh ra, nhưng sau đó do bị môi trường hậu thiên làm cho mê muội, dẫn đến tham luyến cảnh sắc thế gian mà tạo nghiệp không thể phản hồi bản nguyên ( nguồn gốc ban đầu ) cho nên mới thành chúng sanh.

    Lão mẫu giáng hạ thông thiên chú

    Lão Mẫu giáng hạ thông thiên khiếu là vì con ngưởi giáng sinh nơi thế gian này đã hơn 60000 năm rồi, những ác nghiệp đã tạo tích lũy lại chất cao như núi, cho nên mãi mãi vẫn chỉ là chúng sanh mà thôi, không thể thành Phật được. Hiện nay khoa học càng phát triển, nhưng trái lại, đạo đức của con người ngày càng đọa lạc, nhân tâm bất cổ, tai kiếp liên miên, dẫn đến ngày tận thế sắp đến. Lão Mẫu trên trời không nỡ để thiện ác cùng chết chung, nên đích thân hạ chỉ giáng hạ một đường kim tuyến, trực chỉ kiến tánh, kiến tánh thành phật, cho nên huyn quan còn gọi là thông thiên khiếu,
    nguyên nhân được 1 điểm thì ai cũng có thể quy căn nhận mẫu, thoát ly khổ hải, không cần phải tiếp tục quay trở lại thế giới này để làm chúng sanh.

    Vô ảnh sơn tiền đối hợp đồng

    Vô ảnh sơn chính là nói v cái Linh Sơn Tháp của chúng ta, chính là song lâm thụ. Song lâm thụ là dưới hai gốc cây Sa La nơi mà lúc trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn. Tử Trúc Lâm chính làđạo trường của Quan Thế Âm Bồ Tát, cũng chính là nói đến nơi cư ngụ của Phật tánh chúng ta. Tuy là tiếp thụ trực chỉ kiến tánh, nhưng chúng ta vẫn phải chăm chỉ tu luyện. Vậy thì chúng ta phải thân chứng và thực chứng như thế nào ?  Khi khấu đầu thì hợp đồng của chúng ta phải đối xứng với huyn quan khiếu.

    Anh nhi yếu tưởng quy gia khứ

    Anh Nhi chính là cách gọi yêu thương trìu mến của Lão Mẫu từ bi trên trời dành cho chúng ta. Chúng ta đu do cùng một mẹ sinh ra, cho nên chúng ta đu là con cái của trời, gọi là cửu lục hoàng thai nhi nữ. Lão mẫu từ bi nói với chúng ta rằng, đây là cơ hội trong hơn 60000 năm mới có một lần, nếu muốn quay v quê hương Lý Thiên thì phải đi nhận lại người mẹ, nghĩa là phải nhanh chóng cầu tam bảo. 

    Trì niệm đương lai Di Lặc kinh

    Trời có tam bảo : Nhật, Nguyệt, Tinh, Đất có tam bảo : thủy, hỏa, phong, người có tam bảo : tinh, khí, thần, đạo có tam bảo : Quan, quyết, ấn. Đoạn trước đã đắc được 2 bảo, còn thiếu 1 bảo chín h là Di Lặc Chân Kinh, chân kinh không tụng trên giấy, nên gọi là Vô tự chân kinh, Quan Thánh Đế Quân viết : “ Phùng tỏa khai khai, chân nhân
    hiện xuất lai, chân kinh lao lao ký, hài tử bao tại hoài. “ Vậy là tam bảo đã đầy đủ, có thể tránh kiếp, quy căn nhận mẫu, chú ý “ trì niệm “ bảo trì trong tâm, không phải là niệm ra ngoài miệng, chân kinh ghi nhớ trong lòng, mặc niệm là được rồi, thời thời khắc khắc không được quên. 

    Dụng tâm trì niệm Phật lai cứu   
    Chỉ cần sau khi đắc đạo mình thành tâm bảo thủ, thật tâm tu luyện, dụng tâm mặc niệm chân kinh, trong quá trình tu đạo nếu gặp phải hoạn nạn lớn nhỏ, Di Lặc Tổ Sư sẽ phái Tiên Phật đến hộ cứu, chuyện lớn h
    óa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không. Có rất nhiu những ấn chứng v phùng hung hóa cách, sau này sẽ từ từ phát sinh trên người của chúng ta.  


    Đoá đoá kim liên khứ siêu sinh
    Thức đắc tây lai bạch dương tử

    Sau khi chúng ta biếđược Di Lặc cứu khổ chân kinh thì chúng ta rất muốn quay v trời, mỗi người chúng ta đu tu rất tốt và sau khi biếđược tam bảo và tu luyện thì chúng ta đu là phật, có thể quađược cái ải sinh tử, thì đóa đóa kim liên khứ siêu sinh. Kim liên chính là những nguyên thai phật tử chúng ta.

    Làm người phải biết thời cuộc, nên gọi là tam dương khai tấu, Thanh Dương, Hồng Dương, Bạch Dương. Ngày nay liệu có phải là Bạch Dương K, chúng ta tham khảo lịch sử đương lại thì rõ. Thanh Dương K cô dâu mặc áo cưới màu xanh, tất cả bài trí đu là màu xanh, màu xanh là màu cát tường. Hồng Dương Kỳ cô dâu mặc áo cưới màu hồng, trong phòng ngủ hay phòng khách đu bố trí màu đỏ, màu hồng là màu cát tường. Ngày nay cô dâu mặc áo cưới màu trắng, điu này rất rõ ràng là Bạch Dương K rồi, cho nên chúng ta phải nhận biết Bạch Dương K và thời k này Di Lặc Tổ Sư quản chưởng thiên bàn, Sư Tôn Sư Mẫu chưởng đạo bàn và là Bạch Dương nhị tổ, cho nên chúng ta phải tu luyện thật tốt dưới thời Bạch Dương, đại đạo giáng thế là ứng thời ứng vận, cho nên tu đạo phải nhận biết thiên thời.

    Hương nhi điểm thiết hoá thành kim

    Dựa vào công pháp lên trời và xuống đất, biếđược mình từ trên trời xuống và có thể từ mặt đất mà lên trời, biếđược công phu tam bảo, cho nên bây  giờ chúng ta đang trong sự chuyển đổi giữa hữu hình và vô hình. Hữu hình chính là phần cơ thể của chúng ta, vô hình chính là tâm niệm của chúng ta. Sau khi biếđược những đạo lý này rồi thì tâm của chúng ta chuyển niệm, như vậy thì mỗi người sẽ từ chỗ giống như sắt mà chuyển biến thành vàng, thật sự là có thể biến sắt thành vàng.

    Lão Mẫu dùng lời âm thanh từ bi yêu thương để gọi những người con chúng ta đây tỉnh giấc, không nên tiếp tục buông thả mình, tuy hiện nay trong lúc tu đạo vẫn là người, nhưng sau khi thông quađắc được 1 chỉ điểm thì giống như sắt điểm một cái thì biến thành vàng, trở thành thể kim cang bất hoại.

    Mỗi nhật chí tâm thường trì niệm

    Sau khi đắc đạo thì phải lập chí ở đạo, mỗi ngày thành tâm, không lúc nào rời khỏi đạo tâm và tam bảo, như quân tử Nhan Hồi đắc được 1 điểm thì luôn ghi lòng tạc dạ , giữ gìn cẩn thận để không mấtđi. 
    Tam tai bát khổ bất lai xâm

    Tam tai là thủy, hỏa, phong kiếp, Bát nạn là hạn hán, lụt lội, nạn đói, bệnh ôn dịch, châu chấu, mãnh thú tinh quái, ma quỷ…Nếu mỗi ngày chí tâm thường trì niệm thì sẽ tránh được tam tai bát kiếp và tam tai bát kiếp tự nhiên không đến gần mình để xâm phạm, có tam bảo, có tu thì được bình an vô sự. 
    Yếu tưởng thánh Phật thường lễ bái

    Tu tam bảo phải ngộ lý tận tính ( ngộ được chân lý, tận cái phật tánh, thiên lý lương tâm của mình, thời thời khắc khắc không được rời khỏi cái thiên lý lương tâm. Ngoài việc có thể tiêu tai giải nguy, mỗi ngày không rời khỏi phật đường tự tánh, bỏ ác theo thiện, sám hối thay đổi trở thành người mới, phát xuất tâm từ bi độ hóa chúng sanh, khi còn tại thế thì giống y như phật mà tu hạnh Bồ Tát, như vậy thì thành Phật không có khó khăn. 
    Thường trì thông minh trí tuệ tâm

    Phải thường xuyên giữ gìn thiên lý lương tâm, đối với bên ngoài thi phải tai nghe, mắt quan sát rõ ràng thế gian đang mỗi ngày biến hóa thay đổi và thiên ma vạn giáo đđã ra đời, đối nội phải đxuất diệu trí tuệ mà bản tính vốn có để phán đoán sự việc đúng sai, chánh tà mới có thể tránh bước vào con đường sai trái mà nếu lỡ bước vào rồi thì ôm nỗi ân hận nghìn thu, có hối hận cũng không kịp. 

    Hưu thính tà nhân hồ thuyết thoại

    Cẩm nang từ mẫu có nhắc chúng ta rằng : đến năm nào đó khi đại cục biếđổi một cái, Tổ sư giả sẽ xuất hiện, đến lúc đó phải biết rõ ràng, cắn răng chịu đựng, bất kể pháp thuật của người đó thế nào, chúng ta không nên tham không nên vọng tưởng, một chút cũng không dao động, chỉ cần tôn sư trọng đạo, nhận lý quy chân, trận đại khảo này là làm loạn đạo bàn, cũng là khảo nghiệm trí tuệ của mọi người. Cho nên mọi chuyện phải suy nghĩ cẩn thận và phân biệt rõ ràng, sau đó chân thành mà làm, không hành động tùy tiện thiếu suy nghĩ, không tin nghe những lời yêu ngôn phỉ báng, như vậy thì bình an vô sự.

    Lao xuyên ý mã niệm vô sinh

    Tâm viên ý mã nghĩa là tâm của chúng ta rất loạn, rất phin não, đó đu là do cái tâm viên ý mã của chúng ta tác oai tác quái, chúng ta phải làm cho tâm lắng tĩnh xuống, phải buộc chặt cái tâm viên ý mã này mới có thể tịnh tâm tu đạo, chính là cái công phu mà sách Đại Học nói : “ tĩnh định an lự đắc “, nghĩa là tâm phải tịnh trước rồmới có định lực, định rồi thì mới an. Một khi cái tâm vượn đã định thì tự nhiên trí tuệ có thể nảy sinh, nhất tâm nhất ý ( 1 lòng 1 dạ ) giữ gìn đạo tâm, cùng với Lão mẫu trên trời tâm lin tâm, tức nhân tâm hợp với thiên tâm ( lòng người phải hợp với lòng trời ), đấy gọi là “ nhân năng thường thanh tịnh, thiên địa tất giai quy “.

    Lão mẫu giáng hạ chân thiên chú

    Lão mẫu đại từ đại bi vì độ 96 Hoàng thai nhi v cố hương nên vào thời tam k mạt kiếp này hạ xuống 1 đường kim tuyếđại đạo và truyn cho vô tự chân kinh ( chân ngôn ), truyn cho chân nhân của mỗi người ( chú ), tâm kinh gọi là Xá lợi tử. Kinh Kim Cang viết 1250 người ( tánh ), đạo đức kinh viết là cốc thần, Đại Học viết là Mân Man Hoàng Điểu. Tên gọi của tam giáo tuy không giống nhưngđu là chân nhân của cùng 1 chỗ đắc được ( thần chú ) , gọi là đắc đạo nhưng thật ra không đắc gì hết. 
    Dụng tâm trì niệm hữu thần thông

    Chân nhân của chúng ta được 1 điểm ở chỗ này , lại đắc được ngũ tự chân ngôn ( vô tự chân kinh ), phải thành tâm thật ý giữ gìn trong tâm không lúc nào rời. Chúng ta phải thành tâm kính ý mà trì niệm cái tam bảo này thì mới có thần thông.

    Kinh Kim Cang viết : như thị trú, như thị giáng phục k tâm. Không những có thể giáng phục cái tâm vọng niệm, nếu khi gặp hoạn nạn, thì chư thiên tiên phật sẽ tự động đến giải cứu thoát ly khỏi tai kiếp.

    Mãn thiên tinh đẩu đô hạ thế        
    Vô tự chân kinh là do Lão mẫu trên trời giáng xuống chân ngôn khẩu lệnh, có ai dám không nghe theo. Khi đại kiếđến, mọi người tụng niệm một cái sẽ kinh thiên động địa. Toàn bộ Chư thiên tiên phật tinh quân đu giáng xuống Đông Thổ trần thế, cứu độ thế nhân thoát kiếp.

    Ngũ phương liệt tiên hạ thiên cung

    Không chỉ có mãn thiên tinh đẩu, ngay đến liệt vị thần tiên Đông Tây Nam Bắc Trung Ương đu cùng hạ thiên cung, đếĐông Thổ trần thế để trợ đạo cứu kiếp, đấy gọi là trên trời không lưu giữ một vị phật nào, tất cả đđược tổng động viên xuống trần thế
    Các phương thành hoàng lai đối hiệu

    Thành Hoàng là 1 chức thần của Minh Ty địa phủ, mỗi nơi đu có, giống như sổ hộ tịch ở nhân gianđược thiết lập ở các phường, quận, làng. Thế nhưng con người sau khi chết linh hồn phải đến Minh Phủ Thành Hoàng để báo có mặt, vì vậy ơn trên từ mẫn cho chúng ta tu trước đắc sau, nếu giống như trước kia phải tiên tu hậu đắc  thì khi đại kiếđến trước mắt, làm gì còn kịp mà tu nữa. Thế nhưng có câu : Tu đạo ngày xưa, biết khó nhưng hành dễ, tu đạo ngày nay, biết dễ nhưng hành khó. Lý do là vì thời cổ xưa cuộc sống đơn giản nên tu đạo dễ dàng, nhưng lúc bấy giờ thì đạo lại ẩn cho nên đắc đạo khó. Ngày nay đại đạo phổ truyn, đắc đạo tuy dễ nhưng do thế giới muôn màu, cuộc sống lãng phí, phải kiên trí mà tu, trước sau như một quả là rất khó. Cho nên biết và làm phải đđôi với nhau. Con người ban đầu là từ Lý Thiên giáng xuống mà sinh ra trên đời, nên mới nói là có Phật tánh, Hoàng thai nhi. Xưa và nay cũng như một, đắc đạo rồi thì có thể siêu sanh, phản hồi Lý Thiên mà phục mệnh. Ngày nay chúng ta đắc trước cho nên phải làm thủ tục chuyển hộ khẩu, từ sổ dưới Địa
    Phủ di dời đến chỗ của Tam Quan Đại Đế, sau này khi quy không, đến chỗ Tam Quan Đại Đế báo đến là được, cho nên tại chỗ đắc đạo viết biểu văn trình tấu Tam Quan Đại Đế, gọi là Thiên Bản ghi Danh,Địa Phủ rút tên, đối hiệu xóa tịch. Tuy là chuyển dời hộ khẩu trước nhưng vẫn phải thành tâm thật ý, trước sau như một mà tu, gọi là thành tâm tu đạo trước sau như một thì thành đạo có dư, không nên giữa đường mà thối chí đạo tâm, khi bị gạt bỏ khỏi hộ khẩu thì có hối hận cũng không kịp.

    báo sự linh đồng sát đích thanh

    Tuy thiên bảng ghi danh, địa phủ rút tên, nhưng Minh Sư đã có nhắc nhở trước rằng : Ngu phu thành đắc hoàn hương đạo, sinh lai tử khứ kiếđương tin. Vẫn phải xem hành vi tu tập của cá nhân mỗi người, đấy gọi là : Đạo do thầy truyn nhưng tu là do bản thân mỗi người. Tu thật hay tu giả, nhất cử nhất động tuy có thể che mắt được bạn đồng tu nhưng không thoát khỏi sự giám sát của Pháp Luật Chủ và Báo sự linh đồng, họ đđại công vô tư, tra xét rất rõ ràng, chuyển tấu lên Thiên Tào, lúc đó nếu là tu hành giả thì không xong rồi. Tăng Tử viết : Thập mục sở kiến, thập thu sở chỉ, knghiêm hô.

    Tam quan đại đế từ bi chú

    Tam Quan Đại Đế là 3 vị vua Minh Quân hửu đạo thời cổ đại gồm : vua Nghiêu, Thuần, Vũ, có công với đời, Thượng Đế chia làm tam quan, Ngày 15 tháng giêng thượng nguyên : vua Nghiêu , Nhất phầm tứ phúc Thiên Quan; Tử Vi Đại Đế.
    Ngày 15 tháng 7 Trung Nguyên , vua Thuấn – Nhị phầm xá tội Địa ĐếThanh Hư Đại Đế.
    Hạ nguyên 15 tháng 10, vua Vũ, Tam Khẩu giải ách Thủy Quan, Động Âm Đại ĐếHọ đđại công vô tư, thưởng phạt phân minh rõ ràng, quản lý sổ ghi chép công và tội, thiện và ác. Tam Quan Đại Đế rất từ bi, khi biểu văđến, bất kể là người đó đang tu hay chưa tu, nhất luật đđăng ký ghi tên vào sổ. 
    Xá tội tam tào cứu chúng sinh

    Kỳ này đại kiếp ập đến, Lão Mẫu trên trời vì cứu chúng sanh, đặc khoan đại xá cho người tu đạo, nếu có thể thành tâm bảo thủ, thật tâm sám hối, sửa sai đổi mới, trời có đức hiếu sinh, không giết người hối lỗi, ơn trên tất sẽ xá tùng cho tội lỗi trước đây, không nỡ để 96 nguyên linh phật tử đọa lạc. Cho nên tu đạo có 3 phần thành tâm thì trời sẽ có 7 phần cảm ứng, 7 phần thành tâm thì có thể được điểm tròn, thật là cơ hội khó gặp.

    Cứu khổ thiên tôn lai cứu thế

    Đạo và kiếp cùng giáng, cũng là thế giới Phật và Ma, cũng là thời kỳ thanh toán hạ nguyên giáp tử, do đó trong lúc tu đạo khó tránh khỏi gặp phải chuyện không thuận lợi, gọi là khảo nghiệm. Thế nhưng tu đạo chịu khảo chứ không chịu tai kiếp, Kim Cang Kinh lục thập phân : Nếu làm người kém cỏi tầm thường là do tội nghiệp kiếp trước của người, đáng ra phải đọa vào ác đạo, nay người đã chịu kém cỏi tầm thường nên tội nghiệp trước đây tức được xóa giảm. cho nên khảo nghiệm là cơ hội để tiêu oán giải nghiệp, ơn trên Lão Mẫu từ bi phái cứu khổ thiên tôn hạ phàm đến cứu thế nhân.

    thân điểm văn bộ yết đế thần

    Cứu khổ Thiên Tôn còn đích thân tự mình điểm Văn Bộ chư thần soái lãnh hạ phàm đáp cứu thế nhân. Yết Đế : Thiên nhân đã được điểm khiếu ( khí thiên thần ). 

    Bát đại kim cang lai hộ pháp

    Bát Đại Kim Cang : Đông Phương trì quốc Thiên Vương, Tây Phương Quảng Mục Thiên Vương, Nam Phương Dương Trường Thiên Vương, Bắc Phương Đa Vấn thiên Vương, và Lôi Bộ, Phong Bộ, Hổ Bộ, Long Bộ, tổng cộng là Bát Đại Thiên Vương cùng đến để hộ pháp trợ đạo. Cho nên Minh Sư ( Điểm truyền sư là thầy thay mặt đại diện ) thỉnh Bát Đại Kim Cương một cái tức thì họ hạ phàm hộ pháp. Do đó, sự quý báu của Thiên đạo là ở chỗ Thiên Mệnh, nghìn Thánh vạn Phật đều cùng đến trợ giúp, nếu chỉ dựa vào sức người thì khó mà phổ độ, năng lực con người khó mà thu viên. Người có thể hồng triển đạo, người và trời hợp nhất thì đại sự mới có thể hoàn thành. Thế nhưng mệnh chánh thì người tu hành cũng phải chân tu mới có thể quy căn phục mệnh.

    Tứ vị Bồ Tát cứu chúng sinh

    Tứ Đại Bồ Tát gồm : Quan Âm Bồ Tát, Nguyệt Tuệ, Văn Thù, Phổ Hiền, bốn vị Đại Bồ Tát, đại từ bi hạ phàm cứu độ chúng sanh. Quan Âm Bồ Tát thệ nguyện lớn nhất, Chúng sanh chưa độ hết thề không quy về bổn vị. Cho nên nhà nào cũng cung phụng Quan Thế Âm Bồ Tát, thường niệm “ Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát “.

    Khẩn lãnh tam thập lục viên tướng

    Cứu Khổ Thiên Tôn còn dẫn theo 36 viên Mãnh Tướng hạ phàm hiệp trợ cứu độ chúng sanh.

    Ngũ bách linh quan khẩn tuỳ cân

    Không chỉ dẫn dắt theo Văn Bộ Chư Thần, Bát Đại Kim Cang, Tứ vị Bồ Tát, 36 viên mãnh tướng, còn có 500 Tiên Quan cũng đi theo nghe lệnh sai khiến. Có thể nói là tổng động viên tất cả thần tiên trên trời.

    Phò trợ Di Lặc thành đại đạo

    Việc tổng động viên thần tiên như thế thì rõ ràng là đại kiếp nạn lần này là đại hạo kiếp từ trước đến nay chưa bao giờ có, trước đây Thanh Dương Kỳ là thủy kiếp, Hồng Dương Kỳ là hỏa kiếp, cũng đều chỉ là một bộ phận mà thôi, thế nhưng thời kỳ Bạch Dương này thì đến cà thủy, hỏa, phong đều tề phát, gọi là Diên Khang phong kiếp, sự lợi hại của chiến tranh hạt nhân có thể thấy mà biết được. Cho nên, Chư Thiên Thần Tiên Phật cũng đều hạ phàm cứu tai cứu kiếp và phò trợ Tổ Sư Quản chưởng Thiên Bàn kỳ này là Di Lặc Tổ Sư hoàn thành đại sự này một cách thành công.

    Bảo hựu hương nhi đắc an ninh

    Lão Mẫu trên trời phái nhiều Tiên Phật như vậy để bảo vệ 96 Nguyên nhân tu đạo trong thời kỳ đại kiếp này có thể bình an vô sự, tu thật tốt không bị quấy nhiễu, có thể hành công lập đức về cố hương nhận Mẫu

    Bắc phương chân võ vi tướng soái

    Kỳ này đạo và kiếp cùng giáng, là thế giới của Phật và Ma, nên phái tiên phật bảo vệ chúng sanh tu đạo còn chưa đủ, vì vẫn còn có tà ma làm nhiễu loạn đạo, cho nên còn phái Bắc Phương Chân Võ Phật làm tổng tư lệnh, dẫn dắt thiên binh thiên tướng thu phục ác ma, trấn áp tà ma, cứu độ chúng sanh.

    Thanh liệm hồng phát hiển thần thông

    Bắc Phương chân võ phật vì chấn áp tà ma mà hiện ra vẻ uy nghi mặt xanh tóc đỏ, biến hóa vô lường, thần thông quảng đại, tà ma ác quỷ nhìn thấy cũng phải khiếp đảm.

    Xả khởi tạo kỳ già nhật nguyệt

    Tạo kỳ là cờ đen, Phương Bắc vốn thuộc màu đen. Phất cao ngọn cờ đen che khuất bầu trời biến thành mặt trăng và mặt trời đều không sáng, thành thế giới đen tối để chế phục quần ma, một mặt pháo lửa đạn bay cát bụi mịt trời, thủy hỏa kiếp đều giáng, đấy chính là khang phong kiếp của Bạch Dương Kỳ, tức là chiến tranh hạt nhân, tạo thành tam kỳ mạt kiếp xưa nay chưa từng có, cũng chính là thế giới đại chiến lần thứ 3. Lưu bá Ôn nói : Phi giả phi điểu, tiềm giả phi ngư, chiến bất tại binh, tạo hóa du hí. Chiến tranh lần này dùng đến vũ khí hạt nhân đạn bay và ngư lôi, ít có ai dùng lực, số lượng người chết và bị thương nhiều không thể tưởng tượng, giống như sự tàn khốc tiêu diệt người và súc sanh một cách vô nhân đạo. 

    Đầu đỉnh sâm la thất bửu tinh

    Trang điểm vũ trang của Chân Võ Phật gồm có vương miện đội trên đầu, rất trang nghiêm, nghiêm chỉnh còn có Bắc Đẩu thất tinh linh quang chiếu sáng hộ pháp.

    Uy trấn bắc phương vi soái thủ

    Sự trang điểm muôn vẻ uy nghi nghiêm chỉnh và uy linh thần thông quảng đại đủ để trấn áp vạn phương quần ma. 

    tc thỉnh chư ác quải giáp binh

    Sự nghiêm túc uy nghi như vậy có thể quét trừ sạch tất cả ác ma yêu quái, những kẻ ác thì bị đạn nguyên tử tiêu diệt, sau khi quét sạch toàn bộ thì không động đến vũ khí nữa, súng dao đều trở về kho, tai kiếp sẽ yên ắng trở lại, hồi phục thế giới đại đồng những tháng ngày vua Nghiêu vua Thuấn, Quốc Thái Dân An.

    Đáp cứu nguyên nhân hương nhi nữ

    Sau khi Chân Võ Phật uy chấn Bắc Phương dẹp yên quần ma chư ác thì có thể đáp cứu 96 nguyên nhân Hoàng thai nhi nữ bình yên vô sự.   

    Hoả quang lạc địa hoá vi trần

    Cuộc chiến tranh hạt nhân lần này cực kỳ lợi hại, uy lực của hỏa quang rất mạnh , một khi xuống đất, vạn vật đều hóa thành tro bụi, nhưng một mặt có chư thiên tiên phật tranh thủ đáp cứu những người hiền lành tu đạo, vào lúc này chính là lúc thiện ác phân ban.
    Tứ hải long vương lai trợ đạo

    Chiến tranh lần này không chỉ ở trên trời và lục địa mà còn dùng đến ngư lôi để hủy diệt chiến hạm, cho nên Tứ Hải Long Vương cũng trợ đạo đáp cứu những Nguyên nhân ở trên thuyền.
    Các giá tường vân khứ đằng không

    Tứ Hải Long Vương cũng đằng vân giá vũ cùng đến hộ đạo, tham gia vào việc cấp cứu Nguyên Nhân.

    Thập phương thiên binh hộ Phật giá   
    Những vị Chư thiên thần tiên phật bồ tát đã nói trên và Tứ Hải Long Vương tất cả đều hạ phàm cứu kiếp trợ đạo, đến cả mười vạn thiên binh thiên tướng đều cùng giáng xuống hiệp trợ chư phật cứu tai kiếp, giúp Di Lặc Tổ Sư bàn việc thu viên đại sự lần này, cứu độ Nguyên nhân, bảo hộ Phật giá, mỗi vị đều tận hết trách nhiệm của mình, quả là một đại kiếp số chưa từng có, phải tổng huy động cả chư thiên tiên phật, thiên binh thiên tướng nên mới gọi là ngày tận thế.
    Bảo hộ Di Lặc khứ thành công

    Lần này có thể động viên như vậy chính là phò trợ Tổ Sư Di Lặc quản chưởng thiên bàn bàn việc thu viên đại sự Mạt hậu nhất trước, giúp đỡ hoàn thành trách nhiệm, bảo vệ Nguyên nhân Phật Tử đồng đăng cực lạc thanh tịnh cố hương và đoàn viên.
    Hồng dương liễu đạo quy gia khứ

    Hồng Dương Kỳ là Thích Ca Mâu Ni Phật quản chưởng thiên bàn, đã kết thúc vào thời Trung Hoa Dân Quốc, hoàn thành nhiệm vụ phổ độ và kỳ hạn đã mãn, trở về thiên cung phục kỳ bản vị, cho nên những gia đình bình thường không có cung phụng tượng phật Thích Ca Mâu Ni là như vậy. Chùa chiền là do kế thừa Thần Tú mà đến. Chúng ta là do kế thừa Lục Tổ Huệ Năng mà đến, đến thời Sư Tôn Sư Mẫu tổng cộng
    là 18 đời Tổ Sư.
    Chuyển đáo tam dương Di Lặc Tôn

    Tục gọi là Tam Dương khai thái, thời kỳ thứ 1 là Thanh Dương Kỳ, bắt đầu từ Phục Hy Thị trở đi cho đến Thương Thái thì ngưng Thởi k thứ 2 Hồng Dương K, từ đời nhà Thương, đầu thời k nhà Chu cho đến thời Trung Hoa Dân Quốc thì ngưng, Phật Thích Ca Mâu Ni ứng vận quản chưởng thiên bàn.Thời k thứ 3 là Bạch Dương K, Di Lặc Tổ Sư ứng vận quản chưởng Thiên Bàn, từ lúc Trung Hoa Dân Quốc kết thúc cho đến 10800 năm. Cho nên đại chiến thế giới lần thứ 3 gọi là ngày tận thế, là ngày diệt ác chứ không phải là ngày thế giới diệt vong, cho đến Thân Hội thu người còn 10800 năm, chỉ là trong thời k thanh toán này liệu có đức hạnh để qua được đại kiếp này hay không mà thôi. 
    Vô Hoàng sắc lệnh ký hạ sinh

    Lần này Tiên Phật hạ phàm đáp cứu chúng sanh, cũng là đáo trang hạ phàm chuyển thế làm người thay trời hồng triển đại đạo, phổ độ chúng sanh, kêu gọi thức tỉnh những chúng sanh mê muội, minh ám song hành. Minh thỉ như Bạch Dương Tổ Sư Lộ Trung Nhất do Di Lặc Phật hóa thân, Bạch Dương Nhị Tổ Thiên Nhiên Cổ Phật ( Sư Tôn ) do Tế Công Hoạt Phật hóa thân, Trung Hoa Thánh Mẫu ( Sư Mẫu ) do Nguyệt Tuệ Bồ Tát hóa thân, còn những vị Tin Nhân khác thì đếm không xuể. Ám là chỉ Chư Thiên Thần Tiên Phật mà mà đoạn trước đã nói đếđu âm thầm tham gia vào việc đáp cứu Nguyên nhân. Tất cả đu do Lão Mẫu ở Vô Cực Lý Thiên hạ giáng sắc lệnh, lệnh cho Chư Phật trợ đạo và gửi lời truyn xuống cho Chúng linh Phật tử ở nơi phàm trần, sớm ngày ngộ đạo, dẫn dắt những chúng sanh mê muội đi vào giác ngộ, sớm ngày phản hồi Lý Thiên.

    Thu phục Nam Diêm quy chánh tông
      

    Trong cái năm tam k mạt kiếp, thiên môn vạn giáo đu t phát, tại  cõi Nam Diêm Đông Thổ nhiễu loạn đạo bàn chánh tông, do đó Lão Mẫu ở Vô Cực Lý Thiên không thể không hạ sắc lệnh thu phục thiên môn vạn giáo, tả đạo bàng môn, thống nhất quy v chánh tông, một đường kim tuyếđại đạo. 
    Lai vãng tạo hạ chân ngôn chú 
    Người thì hạ phàm, người thì v trời, chính là Tiên Phật hạ phàm giáng thế làm người để hồng triểnđại đạo, hoặc Chúng sanh v trời cũng đu phải thông qua Bất nhị pháp môn do Lão Mẫu sáng tạo, do Minh Sư khẩu truyn tâm ấn, chân ngôn khẩu quyết, để Nguyên Linh Phật Tử v trời. 
    Truyền hạ đương lai đại tạng kinh

    Đại Tạng Kinh là Vô tự chân kinh, là chân ngôn chú của Lão Mẫu truyền xuống cho chúng ta, chỉ có điều là che ẩn chữ đi, không được phép viết xuống, dùng vào việc cứu độ Nguyên linh Phật Tử sau này. Chân kinh không nằm trên giấy để mà tụng, do vậy mà tìm kinh trên giấy phí công phu. Nếu trên giấy mà bàn về kinh thì không thể hội được chân lý diệu nghĩa.
    Anh nhi xá nữ thường trì niệm

    Anh nhi là chỉ càn đạo, xá nữ là chỉ khôn đạo. Đại tạng kinh mà Lão mẫu truyền cho thì phải ghi nhớ trong lòng, không phút nào rời, ghi nhớ chắc chắn trong lòng thì có thể phùng hung hóa cách.


     Tà thần bất cảm lai cận thân
    Nếu thường trì niệm chân kinh, tất cả tà thần đều không dám đến gần mình để xâm phạm, tự nhiên đều tránh xa. Mặt khác, trong lòng thường ghi nhớ như in thì tất cả những vọng tưởng tà niệm đều tự nhiên bị tiêu diệt. Kinh Kim Cang viết : Như thị chú, như thị giáng phục kỳ tâm. Tâm phàm giáng phục thì tâm tánh sẽ thanh tịnh, ngộ được chân lý không có gì là khó.
    Trì niệm nhất biến thần thông đại

    Nếu một ngày trì niệm qua 1 lần thì sẽ khiến cho tinh thần vui vẻ, thần thông quảng đại, có thể nảy sinh diệu trí tuệ mà ứng biến với vạn sự.

    trì niệm lưỡng biến đắc siêu sinh

    Nếu một ngày trì niệm 2 lần thì khiến cho tâm tánh thanh tịnh, có thể khiến ta minh tâm kiến tánh, nhận lý tu đạo, cuối cùng khi mạng chung thì có thể siêu sanh liễu tử.


    Trì niệm tam biến thần quỷ phạ

    Nếu một ngày trì niệm 3 lần thì tà thần ác quỷ đều sợ hãi mà tránh xa không dám đến gần mình.
    Võng lượng tà ma hoá vi trần

    Võng lượng là chỉ sơn yêu thủy quái. Người tu đạo thường trì niệm chân kinh thì đến cả sơn yêu thủy quái đều biến thành tro bụi , tiêu diệt không còn tung tích
    Tu trì kiếp nội tầm lộ kính

    Đại kiếp kỳ này là mấu chốt thăng giáng, chuyện đại sự liên quan đến sự sống và cái chết, cho nên trước khi đại kiếp được giáng phải cầu Minh Sư chỉ điểm khai thị đường con đường đi cho mình, phải tu, tôn sư trọng đạo mà tu thật tốt, hành công lập đức, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tìm kiếm đại đạo quang minh có thể tránh kiếp và siêu sanh liễu tử.
    Niệm khởi chân ngôn quy Phật lệnh

    Nếu đã đắc được chân truyền thì phải cấp tốc mà mãnh tiến, mặc trì chân kinh, tuân thủ phật quy lễ tiết, tôn sư trọng đạo, tu đạo tâm không đổi trước sau như một, khiến cho có thể phục hồi phật tánh vốn có, lúc lâm chung có thể triều kiến Vô sinh Lão mẫu, vĩnh sanh nơi tịnh thổ, không phải đầu thai trở lại trong biển khổ.
    Nam mô Thiên nguyên thái bảo          A Di Đà 


    Phật thập khấu thủ

    Nam ở tiên thiên thì là can vị, Vô là vô cực, là nguồn gốc của đạo, cũng là nguồn gốc của thiên địa vạn vật sinh mệnh trong vũ trụ. Có âm dương mới có thể sinh vạn vật, cho nên vạn vật từ vô sinh mà sinh ra những chất thể hữu hình, cuối cùng rồi cũng sẽ từ hữu hình mà trở về vô hình. Nam ở hậu thiên thì là Ly vị, Ly thuộc hỏa là mặt trời, ánh mặt trời phổ chiếu thiên hạ vạn vật, không chỗ nào không chiếu đến. Cho nên nếu trên trời không có ánh sáng thì không có ngày phân điểm; đất nếu không có ánh sáng thì vạn vật không thể sinh trưởng. Đây chính là diệu lý nghiên cứu phật pháp, vô vi bất nhập. Cho nên, Nam Mô là vị chí tôn chí quý. Thiên Nguyên là phục thủy ( khôi phục lại Thiên địa nhất nguyên ) ban đầu, Nhất nguyên là 129600 năm. Một hội là 10800 năm, do đó Bạch Dương số vẫn còn 10800 năm. Thái Bảo là tước vị Tiên Thiên, tương đương với tước vị Hậu thiên quan danh tam công. Thái Nguyên Thái Bảo chưởng quy, y tam bảo Phật, Pháp, Tăng, Phật quang phổ chiếu khắp tam thiên thế giới. Phàm tu đạo thiện nam tín nữ, tuân theo quy y tam bảo mà tu thì có thể thành tiên, thành Thánh

    1.        Người quy y Phật ( Giác tính )Bổn tánh của con người vốn dĩ là Phật tánh, khôi phục ngược lại bộ mặt vốn có của con người, trừ bỏ thất tình lục dục và tham sân si...
    2.        Người quy y pháp ( Chánh tâm ). Cái lễ tâm vô thiện vô ác, một ngày phản tỉnh lại tâm mình 3 lần, tức có thể hồi quang phản chiếu, quy về bổn tâm.

    3.        Người quy y tăng ( Tịnh thân ).  Thanh tịnh trai giới, giới trừ Sát, Đạo, Dâm, Vọng, Tửu ( rượu ), quy phục lại thân Bồ Đề chánh đẳng chánh giác.


    0 nhận xét:

    Đăng nhận xét