• MÓN ĂN CHAY DINH DƯỠNG
  • HỎI ĐÁP VỀ VẤN ĐỀ ĂN CHAY
  • NHỮNG CÂU CHUYỆN LUÂN HỒI ĐẦY BÍ ẨN
  • Người theo dõi

    Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2016

    Từ huấn của Hoạt Phật Lão Sư







     Bởi vì sự phát tâm của con



    “Bởi vì một phần phát tâm của con, Con đã cứu rất nhiều 

    chúng sanh;


    Bởi vì thành ý này của con, Con đã làm cảm động rất nhiều 

    người;

    Bởi vì đôi tay này của con, Con đã cứu rất nhiều chúng sanh 

    trong biển khổ;

    Bởi vì sự thúc đẩy của con, Con có thể đem Phật pháp phát 

    dương quang đại;

    Bởi vì con chịu bỏ ra một phần sức, Con có thể giúp đỡ mọi 

    người, khiến cho đạo vụ càng thêm trưởng thành;

    Bởi vì một phần lý tưởng của con, Con đã khai sáng một con 
    đường quang minh sáng ngời;

    Bởi vì hy vọng này của con, Con đã thành toàn được rất 

    nhiều người;

    Bởi vì sự phát tâm này của con, Con khiến cho cha mẹ cũng 

    có thể thăng Thiên;

    Cho nên chớ có nghĩ rằng con là người bình phàm,

    Người bình phàm cũng có thể thành tựu những sự việc trọng 
    đại.

    Con phải tin tưởng bản thân mình, chớ có lo lắng sợ hãi,

    Chỉ cần con có phần tâm này, Thầy đây nhất định sẽ giúp 

    đỡ.”




    Vì sao người lương thiện cả đời gặp nỗi buồn và trắc trở?






    Tôi đã tìm một người thầy thông thái và đạo hạnh xin chỉ bảo:
    -Vì sao những người lương thiện như con lại thường xuyên cảm thấy khổ, mà những người ác lại vẫn sống tốt như vậy
    Thầy hiền hòa nhìn tôi trả lời:
    - Nếu một người trong lòng cảm thấy khổ, điều đó nói lên rằng trong tâm người này có tồn tại một điều ác tương ứng. Nếu một người trong nội tâm không có điều ác nào, như vậy, người này sẽ không có cảm giác thống khổ. Vì thế, căn cứ theo đạo lý này, con thường cảm thấy khổ, nghĩa là nội tâm của con có tồn tại điều ác, con không phải là một người lương thiện thật sự. Mà những người con cho rằng là người ác, lại chưa hẳn là người thật sự ác. Một người có thể vui vẻ mà sống, ít nhất nói rõ người này không phải là người ác thật sự.
    Có cảm giác như bị xúc phạm, tôi không phục, liền nói:
    -Con sao có thể là người ác được? Gần đây, tâm con rất lương thiện mà!
    Thầy trả lời:
    -Nội tâm không ác thì không cảm thấy khổ, con đã cảm thấy khổ, nghĩa là trong tâm con đang tồn tại điều ác. Con hãy nói về nỗi khổ của con, ta sẽ nói cho con biết, điều ác nào đang tồn tại trong con.
    Tôi nói:
    -Nỗi khổ của con thì rất nhiều! Có khi cảm thấy tiền lương thu nhập rất thấp, nhà ở cũng không đủ rộng, thường xuyên có “cảm giác thua thiệt” bởi vậy trong tâm con thường cảm thấy không thoải mái, cũng hy vọng mau chóng có thể cải biến tình trạng này; trong xã hội, không ít người căn bản không có văn hóa gì, lại có thể lưng quấn bạc triệu, con không phục; một trí thức văn hóa như con, mỗi tháng lại chỉ có một chút thu nhập, thật sự là không công bằng; người thân nhiều lúc không nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái…
    Cứ như vậy, lần lượt tôi kể hết với thầy những nỗi thống khổ của mình.
    Thầy gật đầu, mỉm cười, một nụ cười rất nhân từ đôn hậu, người từ tốn nói với tôi:
    Thu nhập hiện tại của con đã đủ nuôi sống chính con và gia đình. Con còn có cả phòng ốc để ở, căn bản là đã không phải lưu lạc nơi đầu đường xó chợ, chỉ là diện tích hơi nhỏ một chút, con hoàn toàn có thể không phải chịu những khổ tâm ấy.-Nhưng, bởi vì nội tâm con có lòng tham đối với tiền tài và của cải, cho nên mới cảm thấy khổ. Loại lòng tham này là ác tâm, nếu con có thể vứt bỏ ác tâm ấy, con sẽ không vì những điều đó mà cảm thấy khổ nữa.
    Trong xã hội có nhiều người thiếu văn hóa nhưng lại phát tài, rồi con lại cảm thấy không phục, đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị cũng là một loại ác tâm. Con tự cho mình là có văn hóa, nên cần phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngạo mạn. Tâm ngạo mạn cũng là ác tâm. Cho rằng có văn hóa thì phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngu si; bởi vì văn hóa không phải là căn nguyên của sự giàu có, kiếp trước làm việc thiện mới là nguyên nhân cho sự giàu có của kiếp này. Tâm ngu si cũng là ác tâm!
    Người thân không nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái, đây là không rộng lượng. Dẫu là người thân của con, nhưng họ vẫn có tư tưởng và quan điểm của riêng mình, tại sao lại cưỡng cầu tư tưởng và quan điểm của họ bắt phải giống như con? Không rộng lượng sẽ dẫn đến hẹp hòi. Tâm hẹp hòi cũng là ác tâm.
    Sư phụ tiếp tục mỉm cười:
    - Lòng tham, tâm đố kỵ, ngạo mạn, ngu si, hẹp hòi, đều là những ác tâm. Bởi vì nội tâm của con chứa đựng những ác tâm ấy, nên những thống khổ mới tồn tại trong con. Nếu con có thể loại trừ những ác tâm đó, những thống khổ kia sẽ tan thành mây khói.”
    Con đem niềm vui và thỏa mãn của mình đặt lên tiền thu nhập và của cải, con hãy nghĩ lại xem, căn bản con sẽ không chết đói và chết cóng; những người giàu có kia, thật ra cũng chỉ là không chết đói và chết cóng. Con đã nhận ra chưa, con có hạnh phúc hay không, không dựa trên sự giàu có bên ngoài, mà dựa trên thái độ sống của con mới là quyết định. Nắm chắc từng giây phút của cuộc đời, sống với thái độ lạc quan, hòa ái, cần cù để thay thế lòng tham, tính đố kỵ và ích kỷ; nội tâm của con sẽ dần chuyển hóa, dần thay đổi để thanh thản và bình an hơn.
    -Trong xã hội, nhiều người không có văn hóa nhưng lại giàu có, con hãy nên vì họ mà vui vẻ, nên cầu chúc họ càng giàu có hơn, càng có nhiều niềm vui hơn mới đúng. Người khác đạt được, phải vui như người đó chính là con; người khác mất đi, đừng cười trên nỗi đau của họ. Người như vậy mới được coi là người lương thiện! Còn con, giờ thấy người khác giàu con lại thiếu vui, đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị chính là một loại tâm rất không tốt, phải kiên quyết tiêu trừ!”
    Con cho rằng, con có chỗ hơn người, tự cho là giỏi. Đây chính là tâm ngạo mạn. Có câu nói rằng: “Ngạo mạn cao sơn, bất sinh đức thủy” (nghĩa là: ngọn núi cao mà ngạo mạn, sẽ không tạo nên loại nước tốt) người khi đã sinh lòng ngạo mạn, thì đối với thiếu sót của bản thân sẽ như có mắt mà không tròng, vì vậy, không thể nhìn thấy bản thân có bao nhiêu ác tâm, sao có thể thay đổi để tốt hơn. Cho nên, người ngạo mạn sẽ tự mình đóng cửa chặn đứng sự tiến bộ của mình. Ngoài ra, người ngạo mạn sẽ thường cảm thấy mất mát, dần dần sẽ chuyển thành tự ti. Một người chỉ có thể nuôi dưỡng lòng khiêm tốn, luôn bảo trì tâm thái hòa ái từ bi, nội tâm mới có thể cảm thấy tròn đầy và an vui.
    -Kiếp trước làm việc thiện mới chính là nguyên nhân cho sự giàu có ở kiếp này, (trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu). Mà người thường không hiểu được nhân quả, trồng dưa lại muốn được đậu, trồng đậu lại muốn được dưa, đây là thể hiện của sự ngu muội. Chỉ có người chăm học Phật Pháp, mới có được trí huệ chân chính, mới thật sự hiểu được nhân quả, quy luật tuần hoàn của vạn vật trong vũ trụ, nội tâm mới có thể minh tỏ thấu triệt. Để từ đó, biết làm thế nào lựa chọn tư tưởng, hành vi và lời nói của mình cho phù hợp. Người như vậy, mới có thể theo ánh sáng hướng đến ánh sáng, từ yên vui hướng đến yên vui.”
    -Bầu trời có thể bao dung hết thảy, nên rộng lớn vô biên, ung dung tự tại; mặt đất có thể chịu đựng hết thảy, nên tràn đầy sự sống, vạn vật đâm chồi! Một người sống trong thế giới này, không nên tùy tiện xem thường hành vi và lời nói của người khác. Dẫu là người thân, cũng không nên mang tâm cưỡng cầu, cần phải tùy duyên tự tại! Vĩnh viễn dùng tâm lương thiện giúp đỡ người khác, nhưng không nên cưỡng cầu điều gì.
    -Nếu tâm một người có thể rộng lớn như bầu trời mà bao dung vạn vật, người đó sao có thể khổ đây?
    Vị thầy khả kính nói xong những điều này, tiếp tục nhìn tôi với ánh mắt đầy nhân từ và bao dung độ lượng.
    Ngồi im lặng hồi lâu…xưa nay tôi vẫn cho mình là một người rất lương thiện, mãi đến lúc này, phải! chỉ đến lúc này, tôi mới biết được trong tôi còn có một con người rất xấu xa, rất độc ác! Bởi vì nội tâm của tôi chứa những điều ác, nên tôi mới cảm thấy nhiều đau khổ đến thế. Nếu nội tâm của tôi không ác, sao tôi có thể khổ chứ ?
    Xin cảm tạ thầy, nếu không được người khai thị dạy bảo, con vĩnh viễn sẽ không biết có một người xấu xa như vậy đang tồn tại trong con!

    thuyền đi kỳ cuối về cố hương







    Lên thuyền đi kỳ cuối con ơi 


    Màn chót rồi lưu luyến chi nữa 


    Quê hương xưa bao lâu chưa chịu về 


    Hồng trần này sao còn vương vấn 


    Nắm tay Ta đừng u mê nữa 


    Đồ nhi ngốc , con cứ vô tình

    Bước chân qua vô tình với Ta

    Con biết không bao đêm nước mắt

    Trọng trách Tam tào ai gánh với Ta

    Khắp phương trời nơi đâu cũng có

    Tế Công Ta tình yêu rộng lớn

    Nhưng sao chưa đến được trái tim con









    Thâu viên màn chót Đạo giáng thế .

    Đại khai từ bi độ thế gian .

    Pháp thuyền vượt khắp cả tam giới .

    Độ tận chúng sanh về cố hương !!

    Nguồn Gốc Của Phiền Não Và Đau Khổ




    Theo “Tứ Diệu Đế”, khổ đau và phiền não dành cho loài người chúng ta gồm có: 84.000 cái khổ, được chia ra làm thành 8 loại: Sanh, Lão, Bệnh, Tử khổ, Ái biệt ly (Thương nhau mà phải xa nhau), Oán tắng hội (Ghét nhau mà phải gặp mặt), Cầu bất đắc (Mong cầu mà không được) và Ngũ ấm xí thạnh khổ (5 uẩn quá sung mãn).
    Người đời, ai náy muôn người như một đều thích được “Vui”, chán ghét cái “Khổ”. Nhưng, người xưa có nói: "Ghét của nào trời trao của đó”. Cho nên trong cuộc sống, từ khi còn trẻ đẹp cho đến lúc già nua xấu xí rồi Chết đi, nếu chúng ta có để ý sẽ thấy những nổi khổ đau phiền não đến với chúng ta chiếm một tỷ lệ khá cao, có thể nói trên: 80%, còn niềm Vui thì chỉ có khoảng 15% đến 20% là cùng. Sao, chúng ta thấy thế nào, có đúng như vậy không?
    Quả thật, sống ở cõi Ta Bà này nhiều Khổ hơn Vui!. Do đó, Cậu của Ngài Xá Lợi Phất đến đảnh lễ Đức Thế Tôn xin mở bày chỉ rõ con đường vượt thoát mọi phiền não khổ đau.
    Đức Thế Tôn dạy:
    Cảm thọ có 3 loại: “Cảm Thọ dễ chịu”, “Cảm Thọ khó chịu” (phiền não) và “Cảm Thọ không dễ chịu cũng không khó chịu”. Cả 3 loại cảm thọ này đều có gốc rễ trong thân thể, hoặc trong tâm ý và nhận thức.
    Cảm thọ có sinh có diệt cũng như bất cứ hiện tượng tâm lý và vật lý nào. Do đó, các ông phải dùng phương pháp Quán Chiếu. Vì chỉ có Quán chiếu mới có thể thấy được Bản chất và Nguồn gốc của các cảm thọ, dù là “lạc thọ”(vui), “khổ thọ” hay “xả thọ” (không khổ không vui).
    Thấy được nguồn gốc của các cảm thọ rồi, ta sẽ thấy được bản chất của cảm thọ.
    Ta sẽ thấy cảm thọ cũng có tánh vô thường và vô ngã (không có tự thể tùy duyên mà biến hiện) như tất cả các pháp (sự vật) khác. Sự sinh diệt của chúng dần dần sẽ không động, không chi phối được đến ta.
    Hầu hết, những nỗi khổ đau phiền não của ta đều bắt nguồn từ nhận thức sai lầm của ta về “thực tại”. Nhổ bật những gốc rễ sai lầm ấy lên, thì khổ đau phiền não do đâu mà tồn tại được.
    Đức Thế Tôn dạy tiếp:
    “Các ông nên biết, nhận thức của con người đầy ắp những sai lầm (si). Vạn pháp Vô Thường mà cho là Thường; vạn pháp Vô Ngã mà cho là Ngã. Đó là Vô Minh.
    Vô Minh là nguồn gốc của khổ đau và phiền não. Tu tập Đạo Giải Thoát, tức là diệt trừ Vô Minh. Điều này, các ông chỉ có thể thực tập bằng pháp Quán Chiếu chứ không thể nào thực tập bằng cách lễ bái, cầu nguyện và tế tự”.
    Qua lời Đức Phật dạy nêu trên, chúng ta thấy thế nào? Lễ bái, cầu nguyện và tế tự có diệt trừ được những khổ đau phiền não không? Nếu không tiêu diệt được, tại sao hiện nay lại có rất nhiều người tu hành đạo Giải Thoát mà cứ chuyên lễ bái, cầu nguyện và tế tự, chớ không y cứ theo lời Đức Phật đã dạy như trên?
    Như vậy, có phải chăng, vì thời nay là thời kỳ Mạt pháp, nên mới có chuyện tu hành trật đường rầy như thế? Có phải chăng, vì họ không có “Thiện Tri Thức” hướng dẫn đưa đường chỉ lối? Và có phải chăng, vì họ Quán Chiếu chưa thấy được 100% là Không như Tổ Hoàng Bá đã khai thị?
    (Tổ Hoàng Bá tức là Hy Vận Thiên Sư nói: “Một vật chia ra làm 100 phần, nếu Quán Chiếu thấy 99 phần là Giả, là Không, còn 1 phần thấy là Thiệt là Có, thì sự vật (pháp) này còn nguyên còn (100%) là Thiệt, là Có”).
    Nhân đây, xin kể câu chuyện của một ông quan lớn kiêm thi sĩ là Tô Đông Pha và Thiền Sư Phật Ấn:
    “Một hôm Thiền Sư Phật Ấn đang dọn dẹp sắp xếp đồ đạc lại ở trong phương trượng thì Tô Đông Pha đến chơi. Thay vì, vào phòng khách, Tô Đông Pha lại đi thẳng vào phương trượng.
    Thấy vậy, Thiền Sư Phật Ấn nói:
    "Trong đây không có ghế ngồi, Tướng công vào đây lấy gì để ngồi?"
    Tô Đông Pha đáp :
    "Không có ghế ngồi, thì lấy cái thân của Thiền Sư làm ghế ngồi”.
    Thiền Sư Phật Ấn nói:
    "Tôi có một câu hỏi, nếu Tướng công đáp được, cứ tự tiện lấy thân bần đạo làm ghế ngồi. Còn như đáp không được, thì phải treo dây Ngọc Đái lại chùa, có chịu không?”.
    Tô Đông Pha đồng ý.
    Thiền Sư Phật Ấn hỏi: "Tứ đại vốn không, ngũ uẫn không phải có, vậy Tướng công ngồi chỗ nào?”.
    Tô Đông Pha không đáp được, đành phải treo dây Ngọc Đái lại chùa”.
    Sao, giờ đây chúng ta có được cái thấy như cái thấy của Tô Đông Pha hay Thiền Sư Pháp Ấn hoặc Đức Lục Tổ thấy:
    “Bản Lai Vô Nhất Vật” (Xưa nay không có một vật) chưa? Nếu như không có được cái nhìn, cái thấy như vậy, thì làm sao phá nổi Vô Minh, để ngừng dứt sự “cảm thọ”, khi 6 căn tiếp xúc với 6 trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) hoặc Tài sắc danh thực thùy (ngũ dục lạc của thế gian) hầu cắt đứt cái ÁI.
    Trong “Thật Nhị Nhân Duyên” có nói:
    Vô Minh sinh Hành, Hành sinh Thức, Thức sinh Danh Sắc, Danh Sắc sinh Lục Nhập, Lục Nhập sinh Xúc, Xúc sinh Thọ, Thọ sinh Ái, Ái sinh Thủ, Thủ sinh Hữu (Nghiệp), Hữu sinh Sanh, Sanh sinh Lão Tử (Sinh Khởi Môn).
    Khi 6 căn “Nhãn, nhĩ Tỵ, Thiệt, Thân Ý” tiếp xúc với 6 trần “Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc Pháp” sinh ra cảm thọ, dẫn đến yêu ghét. Yêu thì giữ lấy (tham), ghét thì bỏ (sân) tạo ra nghiệp mới (Hữu). Thế là lại phải đi đầu thai (sinh), để rồi già chết (Lão Tử). Như bóng tùy hình tiếp tục chẳng ngớt, tạo thành quỹ đạo 360 độ như một bánh xe tròn lớn, nên gọi là Bánh Xe Luân Hồi.
    Giờ đây, để ra khỏi Luân hồi, chúng ta phải thấy sự Cảm Thọ (thọ uẫn) chỉ là một hiện tượng có sinh có diệt, có đó rồi mất đó, nên nói nó là Vô Thường và Vô Ngã. Và tiến thêm một bước nữa, phải thấy nó (cảm thọ) cũng như tất cả các pháp (sự vật) khác đều Không, chúng có đó chỉ là Giả Có (tướng duyên hợp), chẳng khác gì Đức Lục Tổ Huệ Năng, Tô Đông Pha và Thiền Sư Pháp Ấn đã thấy vậy.
    Thí dụ: Mắt chúng ta thấy một đoá hoa Hồng, nếu chúng ta biết cái hoa Hồng tuỳ duyên mà biến hiện, nên biết nó có đó chỉ là Giả Có, chớ đâu phải thực có. Mà đã không phải thực có, thì đâu có khác gì Không, có phải vậy không nào?
    Nếu chúng ta thấy đoá hoa Hồng là vật Giả Có, là Không, thì chúng ta đâu có khởi niệm phân biệt: Đẹp hay Xấu làm gì cho thất công! Khi đã không phân biệt Đẹp hay Xấu, thì đâu có Niệm Yêu hay Niệm Ghét khởi lên được. Nếu đã không có niệm ưa thích hay ghét bỏ đóa hoa Hồng khởi lên, thì tâm của chúng ta lúc bấy giờ thế nào, sự cảm thọ ra sao ? Có phải chăng, lúc bấy giờ chúng ta cảm thấy không khổ, không vui, còn tâm thì được thanh tịnh, thế là chúng ta đã làm chủ được mình và được tự tại khi giáp mặt với trần cảnh bên ngoài, có phải không nào!?
    Tuy nhiên, có 3 điều không kém phần quan trọng, mà chúng ta cần phải rõ biết, nếu tu cho 6 căn thanh tịnh hay pháp Quán Chiếu:
    Đa số người thời nay, chỉ quan tâm đến vấn đề vật chất hơn là tinh thần. Liệu chúng ta có đủ khả năng xoay lưng trở bước nổi đối với vật chất như: Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy...Không?
    Cả 3 cái: ăn, mặc và ngủ nghỉ đều phải thiếu một chút, nhà Phật gọi đó là “tam thường bất túc”. chúng ta có kham nổi không?
    Chúng ta có dám từ thân cắt ái ly gia, để vào ở trong rừng sâu hay chùa chiến hoặc Thiền đường không?
    Ngoài ra, chúng ta cũng nên biết thêm điều này:
    “Diệt sự Cảm Thọ là để cắt ÁI (dục), nếu thành công hành giả sẽ thân chứng cái gọi là: “Thân phần đoạn sanh tử” và kế đó là quả vị A La Hán. Còn muốn thành Phật (Vô Thượng Chánh Đẳng Giác), chúng ta phải y cứ vào phần diễn đạt Hoàn Diệt Môn của pháp Thập Nhị Nhân Duyên. Nghĩa là: Có Già Chết là vì có Sanh. Có Sanh là vì có Nghiệp (Hữu)... Mà có Nghiệp là vì có Vô Minh. Như vậy, nguồn gốc của Sanh Tử là Vô Minh. Song, Vô Minh nói ở đây là cái gì, ở đâu và làm sao mới có thể tiêu diệt được nó. Thực ra không ai có thể diệt trừ Vô Minh vì Vô Minh là ở quá khứ, chỉ có thể Ái dục hiện tại để dứt sanh tử kiếp sau tức là ta đã dứt được phiền não và đau khổ.

    Thứ Năm, 28 tháng 4, 2016

    Nhân Quả Báo Ứng Thời Đại Khoa Học ( Người Câu Cá, Cá Câu Người )




    Người Câu Cá, Cá Câu Người

    Em họ tôi là viện trưởng của bệnh viện nội địa, nên thường hay kể cho tôi nghe về những hứng thú của nghề y, cũng như những chứng bệnh kỳ lạ. Hôm nay tôi đem chúng viết thành văn. Trong đó có một câu chuyện con ba ba ăn theo kỳ, tôi đăng nó trên báo rồi đưa cho anh ấy xem. Anh ấy tuy không biết tiếng Hoa nhưng nhờ người ta dịch sang tiếng Thái. Hai bản dịch Hoa - Thái đều được dán trên bức tường của bệnh viện. Gần đây anh ấy lại kể cho tôi nghe một mẫu truyện ly kỳ, tôi lại viết nó thành văn cho mọi người cùng xem.
    Ngày thứ hai theo thường lệ là ngày bận rộn nhất, bận đến nửa khuya mới về, bởi vì giao thông miền núi khó khăn, người bệnh khởi hành từ sáng sớm nhưng mãi tới khuya mới đến nơi. Cũng có hôm thứ hai chỉ mới trưa mà đã khám xong bệnh nhân, trong bệnh viện chỉ còn lác đác vài bệnh nhân chưa tới mười giường. Lúc ấy, ngoại trừ những bác sĩ, y tá phải trực đêm, ai cũng đều được về sớm, viện trưởng cũng không ngoại lệ. Ngay khi viện trưởng định thu thập đồ đạc ra về thì gặp một cô y tá báo cáo: "Có người nuốt phải con cá đang ở phòng cấp cứu, xin bác sĩ tới khám".
    Bệnh nhân là thanh niên hơn hai mươi tuổi, xem ra mạch đã ngừng đập và ngừng thở không lâu, thân thể vẫn còn ấm, sắc mặt tái xanh hiện lên vẻ đau khổ. Nghe nói, người nhà chở bệnh nhân tới, trên đường đi đã tắt thở. Tuy người bệnh đã mất, nhưng theo luật thì phải tìm ra nguyên nhân cái chết để viết giấy báo tử.
    Dựa trên những tư liệu thuật lại của bạn bệnh nhân: bệnh nhân tên là Nãi Thạnh vì nuốt phải con cá mà chết. Sáng sớm, anh cùng một vài bạn ra ruộng câu cá, vì hôm qua có một trận mưa rất to bờ ruộng trở thành đầm lầy, cá tôm rất thích bơi lội tới, mỗi người câu được khá nhiều. Nãi Thạnh vì muốn bắt một con cá chép to nên đuổi theo tới khe núi; Lúc nãy, bắt được một con cá ba mộ nhỏ nhưng không biết để đâu, nên tạm ngậm vào trong miệng (ba mộ là một loại cá giống cá trê có ria mép nhọn) nhưng bất cẩn nuốt luôn con cá vào họng. Nãi Thạnh cảm thấy hơi đau, cố nôn ra nhưng đã quá muộn.
    Ba mộ vốn là một loài cá có vảy vừa cứng lại vừa nhọn, có khả năng bơi trên cạn và dưới nước, hơn nữa lại có thể leo lên những ngọn núi cao. Vì thế, khi nó đã vào cổ họng, Nãi Thạnh liền cảm thấy khó thở, muốn nuốt cũng không được, muốn nôn cũng không xong, muốn kêu cứu cũng không thể, chỉ biết dùng tay móc ra. Chẳng mấy chốc, khuôn mặt đã tái xanh, khiến cho những người cùng bắt cá hốt hoảng kinh ngạc, vội vàng mở to miệng anh, kéo con cá ra nhưng tất cả đều vô ích, chỉ biết nhìn Nãi Thạnh quằn quại trong cơn đau đớn. Trong số họ có một anh lấy xe đưa Nãi Thạnh đến bệnh viện nhưng nửa đường đã tắt thở.
    Sau khi đã biết rõ đầu đuôi sự tình, Nãi Thạnh vẫn phải phẫu thuật cổ họng để lấy con cá ra. Con cá ba mộ to bằng ngón chân vẫn chưa chết, được y tá bỏ vào hồ nước của bệnh viện. Có người còn đùa cợt: "Nếu cảnh sát truy cứu, muốn tìm thủ phạm thì hãy bảo họ đến đây mà bắt nó về". Thi thể của Nãi Thạnh được người nhà đem về.
    Chuyện Nãi Thạnh chết cũng chẳng có gì là lạ, nhưng chuyện lạ tiếp theo lại xảy ra. Đó là: ngày thứ hai của tuần thứ hai, lại có người nuốt phải con cá ba mộ mà chết. Người chết không ai khác lại là Nãi Thông, cha của Nãi Thạnh.
    Hôm đó, vào ngày ma chay của Nãi Thạnh, nửa đêm cử hành lễ hỏa táng, cha anh là Nãi Thông sáng sớm đã thức dậy bắt cá để chuẩn bị tiếp khách. Tôm cá đầy hồ, cá to cá nhỏ đua nhau nhảy múa loạn xạ. Nãi thông vừa to tiếng gọi vợ đem chiếc thúng để đựng cá, vừa thò tay bắt cá. Những đàn cá bị bắt đua nhau xô đẩy, bất ngờ một con cá ba mộ bật nhảy lên chui tọt vào cổ họng ông. Nãi Thông vô cùng kinh ngạc nhưng đã quá muộn.
    Nãi Thông cố nôn ra, dùng tay cố kéo. Lúc đầu còn nắm được đuôi nó nhưng sau đó trượt mất. Lúc được người ta phát giác thì đã thấy ông với khuôn mặt tái xanh, hai mắt trợn lên, bán sống bán chết, nửa đường tới bệnh viện đã tắt thở, linh hồn đoàn tụ cùng Nãi Thạnh.
    Đây thật sự là một thiên cổ kỳ văn, trở thành vấn đề để mọi người bàn tán. Viện trưởng cũng nhân cơ hội ấy đến hỏi thăm những người cúng điếu, nhằm muốn biết nguyên nhân chỉ trong vòng bảy ngày mà đã có tới hai người bị nuốt phải cá mà chết. Đây chắc chắn là có nguyên nhân khác. 

    Nhân Quả Báo Ứng Thời Đại Khoa Học ( Gà Thiến )




     Gà Thiến

    Một hôm, sau khi ăn sáng xong, như thường lệ tôi đến câu lạc bộ uống trà xem báo, anh Hải chuyên thu mua đồ cũ đột nhiên chạy đến và nói: "Con của chú Trương là Trương Vĩ Lục đã tự sát mà chết, thi thể đã chuyển về nhà". Cả gia đình bác đều rất đau xót, bạn bè bảo tôi đến thăm hỏi bởi vì tình cảm giữa tôi với gia đình bác Trương vốn rất tốt, cho nên sau khi nghe tin tôi lập tức đến viếng, đau xót không cầm được nước mắt.
    Gia đình họ Trương gồm bốn chị em, Trương Vĩ Lục là con trai út. Phẩm chất và tài năng đều rất tốt, cha mẹ và các chị đều rất yêu thương em. Người Trung Quốc vốn có quan niệm trọng nam khinh nữ, theo truyền thống nối dõi tông đường, nên cái chết của anh lần này khiến cho cả gia đình đều vô cùng đau x ó t.
    Trương Vĩ Lục năm nay vừa tròn hai mươi chín tuổi, năm ngoái vừa tốt nghiệp Đại học Y Dược, làm việc cho bệnh viện nhà nước. Ba người chị đều đã xuất giá, mọi người càng yêu thương anh hơn. Năm ngoái, sau khi nhận bằng tốt nghiệp liền đính hôn với cô Lý là bạn học cùng lớp của anh. Ba người chị cùng nhau góp tiền mua cho anh lễ vật đính hôn. Rất nhiều bạn bè thân thích đều rất ngưỡng mộ, bởi vì Trương Vĩ Lục vừa đẹp trai, vừa khôi ngô tuấn tú, khiến cho bao cô gái phải siêu lòng. Thậm chí, có người nghe tin anh đính hôn đã bỏ nhà đi làm ni cô. Trương Vĩ Lục có thể gọi là may mắn, hạnh phúc nhất trên đời, vừa có tiền đồ sáng lạng, vừa có được mối tình duyên đẹp đẽ khiến không ai có thể tin là anh lại tự sát. Vì thế, các bác sĩ thành lập đội pháp y, chia ra thành mấy tổ để điều tra về cái chết của anh. Từ quá trình học tập sinh hoạt cho đến khi nhận công tác ở bệnh viện đều được ghi chép cẩn thận. Bạn bè ai nấy đều rất kinh ngạc trước cái chết của anh.
    Trong số những lời báo cáo có một đoạn như sau: Gần một năm qua có người đã phát hiện anh đã thay đổi rất nhiều từ một anh đại trượng phu tràn đầy nghị lực và sức sống trở nên giống một cô gái. Mọi người đều nghĩ rằng: Có lẽ mỗi ngày anh ấy đều phải tiếp xúc với các cô y tá nên có tính khí âm dương lạ lùng như thế chăng? Tuy đã được bác sĩ khám nhưng vẫn không phát hiện gì lạ.
    Theo lời nhận định của bác sĩ điều trị Ngô Uy Xương: bệnh nhân Trương Vĩ Lục không những không thể khắc phục tình trạng nữ tính mà còn mắc một chứng bệnh bất lực. Tuổi trẻ ít ai lại bị chứng bệnh này. Vả lại gia đình sung túc, từ nhỏ đã không thiếu tình thương yêu, đùm bọc của cha mẹ, bản thân cũng ý thức rõ được chốn phức tạp nhiễu nhương của cảnh phồn hoa đô thị thì thật là không dễ. Những loại thuốc anh đã dùng cũng đã kiểm tra rồi nhưng cũng không phát hiện tác dụng phụ nào.
    Lại theo lời báo cáo của một cô gái: Trương Vĩ Lục là người Nam bộ, tốt nghiệp loại giỏi trường Đại học Y Khoa. Trong thời gian theo học anh tạm trú tại ký túc xá gần chung cư, mỗi buổi sáng ngoài uống cà phê và một số thức uống khác, còn lại trưa và tối đều đến quán cơm tên là "Hải Nam Đại Ca" ăn cơm gà, thức ăn chỉ toàn là thịt gà mà không hề có rau cải. Các hình thức buôn bán này đâu đâu cũng thấy, nó đã trở thành thức ăn nhanh vừa phổ biến, lại vừa rẻ nên người Thái rất thích ăn cơm gà. Tiệm cơm gà Hải Nam rất nổi tiếng, không những giáo sư, sinh viên đến ăn mà còn rất nhiều người đặt mua mang về, công việc làm ăn rất phát đạt. Chủ tiệm có một thói quen là: Cứ đến giờ ngọ đều đóng cửa dọn hàng bất kể số thịt gà còn lại là bao nhiêu. Vì thế khách hàng phải đặt bàn sớm. Nhưng Trương Vĩ Lục là khách đặc biệt ngoại lệ, không những buổi sáng và buổi chiều mà cả buổi tối anh đều tới ăn cơm, anh Lục thường nhắc tới Tổ Tiên của mình, thì ra năm trăm năm trước ông cố của Vĩ Lục sống vào thời nhà Thanh, sinh ra ở huyện Văn Xương đảo Hải Nam. Vì là bà con nên chủ tiệm rất chiếu cố đến anh, biết anh rất thích ăn cánh và đầu gà còn các bộ phận khác thì không cảm thấy ngon.
    Vấn đề đáng chú ý ở đây là: Từ thời xa xưa, người ta nuôi gà, nuôi vịt ít nhất phải tốn sáu, bảy tháng nên được gọi là gà vườn. Nhưng trong thời đại tiến bộ ngày nay áp dụng phương pháp nuôi công nghiệp dùng đèn chiếu sáng, chỉ tốn khoảng bốn mươi ngày thì có ngay một con gà con nặng ba ký. Theo tính toán tinh vi của điện tử: cứ một ký lô gam thức ăn hóa học thì có ngay hàng cân thịt.
    Gà được nuôi bằng hóa chất trông có vẻ béo tròn nhưng thịt thì mềm không có mùi vị, người ta không thích ăn. Vì thế mà chủ tiệm cơm gà phải mua gà vườn để bán.
    Quán Hải Nam Đại Ca ở bên cạnh trường Đại học, chủ tiệm dành một chỗ nhỏ để làm chuồng gà. Ông mua một con gà công nghiệp mang từ chợ về, để trong chuồng nuôi. Một tháng sau, con gà béo tròn, mập mạp hẳn lên. Đây là phát minh độc nhất vô nhị của ông, nhờ đó công việc làm ăn của ông ngày càng phát đạt. Bất luận là gà công nghiệp hay gà vườn nuôi đến một thời gian thì không thể mập hơn được nữa. Con người xem mình là thông minh muốn hưởng thụ hết mọi thú ngon vật lạ liền phát minh ra cách cắt đi bộ phận sinh dục của giống đực, biến chúng trở thành gà thiến, heo thiến ¼Đương truyền những phương pháp này có từ thời của thần y Hoa Đà thời Tam quốc, lúc đó không chỉ gà có thể thiến mà còn heo và các động vật khác cũng có thể thiến. Nhưng phương pháp này đã bị hủy chỉ để lại cho đời sau cách thiến gà mổ heo. Ở nông thôn, người ta hành nghề này để sống.
    Ngày nay, trong thời đại khoa học kỹ thuật tiến bộ người ta không còn dùng đến cách này nữa mà đã phát minh một thứ thuốc giống như viên thuốc tể làm mất đi bản tính tự nhiên của giống nòi. Chỉ cần tiêm thuốc vào mồng gà và cánh gà, hay trộn chung với thức ăn là có ngay một con gà thiến vừa mập vừa béo tròn. Vì thế khi con người ăn vào, vô tình nuốt luôn thuốc vào bụng, bệnh tật từ đó mà phát sinh. Bác sĩ Vĩ Lục rất thích ăn đầu và cánh gà mà không biết rằng đây là phần ngấm độc nhiều nhất. Cuối cùng, thân làm Bác sĩ mà không thể chữa khỏi bệnh cho mình, làm người còn có gì hứng thú nữa. Đó cũng chính là kết quả nghiên cứu sơ khởi về việc tử vong của anh, đã làm chấn động cả bệnh viện.
    Dựa trên bối cảnh của gia đình họ Trương bỗng phát hiện một báo cáo khiến cho mọi người kinh ngạc, cái chết của Vĩ Lục do vô tri tạo thành, nhưng xét về tiền nhân hậu kiếp của anh thì được biết là ông nội của Vĩ Lục cả đời thiến gà mổ heo, cha của Vĩ Lục cũng hành nghề này ha, ba năm rồi bỏ. Có ai ngờ đâu nghề "tuyệt tử tuyệt tôn" lại giáng xuống đời con cháu thứ ba phải gánh chịu. Có ai còn không tin báo ứng nhân quả ba đời nữa. 

    Nhân Quả Báo Ứng Thời Đại Khoa Học ( Cô Gái Không Biết Nói )





     Cô Gái Không Biết Nói

    Thầy giáo Quan có ba cô gái dung mạo tuyệt trần nhưng cả ba cô đều câm. Tất cả các giáo viên trong trường đều biết chuyện này.
    Ai mà chẳng thích theo đuổi gái đẹp, nhưng khi có ai xem mắt đều ngạc nhiên, sửng sốt thì ra là một cô gái câm. Vì thế mà ba cô con gái thầy Quan mặc dù có vẻ đẹp kiêu sa lộng lẫy nhưng vẫn không có người yêu khiến cho cha mẹ vô cùng đau khổ và buồn tủi.
    Trong nhà có một đứa con câm đã đủ khổ rồi vậy mà thầy giáo Quan phải nuôi cả ba đứa con câm. Xuất thân từ phần tử trí thức thầy không tin vận mệnh, quỷ thần, luật nhân quả, nhưng khi đối mặt với sự thật nghiệt ngã, tinh thần sa sút đau khổ khiến hai vợ chồng không thể không ngộ ra rằng: học vấn, tiền tài có thể mang đến cho con người cuộc sống thoải mái, nhưng khi áp lực tinh thần quá độ khiến cho con người khẩn trương lo âu và phiền muộn. Người xưa từng nói: "Thanh niên hay bàn về khoa học, trung niên hay bàn về vận mệnh, lão niên hay bàn về tôn giáo". Hai vợ chồng quá tuổi trung niên bước vào tuổi già, dần dần quan tâm đến vận mệnh và tôn giáo, quan tâm đến quy luật nhân quả của giới tự nhiên, khao khát muốn khám phá, hiểu biết. Khi họ tình cờ tham gia buổi lễ nghi thức tôn giáo, có nghe một vị tăng kể về luật nhân quả: Mỗi chúng ta nên có trách nhiệm về những hành vi thiện ác của mình, mỗi người đều có thể sáng tạo ra vận mệnh của mình như Phật đã từng nói: "Nếu thường xuyên làm việc ác thì nhất định lãnh hậu quả đau khổ sau này". Những lời vàng ngọc của tăng nhân
    như cây đánh vào đầu thầy, khiến thầy càng hiểu rõ nguyên nhân vì sao ba đứa con gái của mình đều câm. Nhân nào quả ấy khiến ông càng lúc càng hối hận và xấu hổ về những hành vi của mình.
    Nhân quả tuần hoàn là một trong những qui luật vận hành của vũ trụ, là không gian bao la vô cùng vô tận, không đứng yên mà luôn vận động không ngừng. Nguyên tắc tuần hoàn vận động không ngừng của nó lại là quy luật nhân quả. Phật Đà sau khi nghiên cứu hướng vận động và kết cấu của vũ trụ liền phát hiện ra quy luật nhân quả, sau đó được các đồ đệ của Phật giáo phát dương thành quan niệm "Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo" tạo nền tảng vững chắc cho sự duy trì đạo đức và trật tự trong xã hội. Nhưng đáng tiếc con người chỉ biết mê muội bởi vật chất hồng trần, chỉ lo theo đuổi những tri thức khoa học, chỉ biết phán đoán chủ quan mà không hề đi tìm hiểu các hiện tượng siêu tự nhiên ấy thậm chí coi đó là mê tín, không buồn đào sâu nghiên cứu".
    Thầy giáo Quan sau khi nghe cao tăng nói xong liền ngộ ra rằng: dù khoa học có phát triển ngày càng tiến bộ, xã hội ngày càng phồn vinh nhưng lại đem đến cho con người nỗi lo âu sợ hãi khiến cho con người mệt mỏi bất an. Nhân tâm của con người cũng bị thế giới vật chất khoa học và sự hưởng lạc khống chế, như bị điều khiển bởi ác tính của mình, như bị xâm chiếm bởi lòng phẫn nộ vậy. Vì thế con người ở những quốc gia tiến bộ thường hay phạm pháp, suy đồi đạo đức hơn những quốc gia lạc hậu.
    Hai mươi lăm năm trước, lúc đó thầy giáo Quan chỉ có ba mươi tuổi kết hôn với một cô gái cùng tuổi. Được hai tháng, vợ thầy mang thai thầy vô cùng mừng rỡ, đây vốn là việc dự tính trước của thầy. Thế là cứ mỗi ngày nghỉ lễ đều dẫn vợ tới bãi biển, hay đi du lịch ngắm cảnh trên chiếc xe hơi bóng loáng của mình, có khi đi đến ba hôm mới về. Trong trường chúng tôi ai nấy đều ngưỡng mộ thầy. Có lần đi xa tới Bắc Thái du ngoạn, xe hơi dừng lại trước chùa Phật, có một đám trẻ ăn mày đang xin ăn. Thầy giáo Quan ghét nhất là bọn ăn mày, ghét nhất thói xòe tay xin tiền của chúng. Thầy không chịu bố thí đã đành mà còn tuyên bố trước mọi người đừng cho tiền chúng, nếu không sẽ hình thành nên thói quen xấu ở chúng, không chịu đi làm mà cứ ỷ lại xin tiền kẻ khác gây tổn hại đến lợi ích xã hội. Sau khi thầy giáo Quan nói xong, mấy đứa trẻ liền ủ rủ phân tán bỏ đ i.
    Một lúc sau, khi đã mua một ít thổ sản định đem vào trong xe thì thầy giáo Quan chợt phát hiện ra chiếc xe hào nhoáng của mình bị rạch một đường dài. Thấy thế thầy Quan vô cùng tức giận nhìn quanh quẩn bốn phía, trong lòng nghĩ chắc là mấy đứa trẻ ăn mày lúc nãy làm. Tình cờ thay! Dưới gốc cây xoài không xa, đám trẻ ăn mày lúc nãy khoảng bốn đến năm em đang chơi đồng tiền. Thầy liền bước đến, bất phân trắng đen mà tát mỗi đứa một bạt tay. Đám trẻ bị đánh đến đỏ sưng cả mặt, đã vậy mà còn bị ép đến coi vết nứt của xe. Các em hoàn toàn phủ nhận việc ấy, nếu không thừa nhận phải tìm ra thủ phạm, thầy còn dọa sẽ đưa cả đám về đồn cảnh sát.
    Trước vẻ hung bạo, vô tình vô lý của thầy, một em trong đám trẻ chỉ vào đứa trẻ quần áo tả tơi đang xòe tay xin tiền một vị khách nước ngoài, rồi nói: "Chính nó đã làm đấy!". Thầy giáo Quan vô cùng tức giận liền kéo em tới xe, còn những đứa trẻ khác thì bỏ chạy hết.
    Thầy Quan liền đánh em hai bạt tay, lại còn thẩm tra hỏi nguyên nhân về vết trầy đó. Hỏi cả nửa ngày trời mới biết đó là đứa bé câm, bé không nói được dùng tay chỉ một cách rung rẩy, đôi mắt ứa lệ chứa đầy nỗi sợ hãi. Thầy giáo Quan không biết sự tình ra sao mà cứ một mực cho rằng nhất định là nó vì không được bố thí mà câm hận trong lòng. Trong cơn phẫn nộ, thầy liền dùng chân phải đá vào ngực em.
    Trước hành vi dã man tàn khóc của thầy, em đã thét lên một tiếng, nôn ra một cục máu tươi, lảo đảo như đứng không vững. Những người khác vội nhanh chóng ngăn cản kéo cô bé ra. Lúc đi em còn ngoáy đầu nhìn chằm chằm thầy giáo Quan với đôi mắt đầy câm phẫn, uất ức.
    Sau đó, em bé câm đã tá túc tại chùa mấy hôm rồi ngã bệnh chết. Chiếc xe bị
    rạch hư ấy hoàn toàn là chuyện oan ức cho em.
    Cuối năm, vợ thầy mang thai sinh ra một cô bé đáng yêu, gương mặt thanh tú nhưng đến hai tuổi vẫn không biết nói. Đứa con gái thứ hai cũng vậy ba tuổi vẫn không biết nói. Đến đứa con thứ ba ngay khi lọt lòng mẹ liền được đem đi kiểm tra, xem có mắc phải chứng bệnh của hai chị không. Sau khi được bác sĩ kiểm tra tỉ mỉ, thì ra lại là một cô bé câm. Vợ thầy giáo Quan cảm thấy sợ lập tức mời bác sĩ tới phẫu thuật (triệt sản) vì e rằng đứa thứ tư, thứ năm cũng vậy. Thầy giáo Quan mỗi lần nhìn thấy ba đứa con gái câm của mình đều chạnh lòng nghĩ tới đứa bé câm ở chùa bị đá đến ói máu, uất ức mà chết. Cho tới nay, thầy vẫn không thể không thừa nhận thiên lý có tuần hoàn báo ứng, thầy không chịu tin tưởng quy luật của vũ trụ, thiên địa vốn có thần minh thiện ác họa phúc để duy trì cân bằng âm dương. Đó chính là định luật của giới tự nhiên.
    Vợ chồng thầy giáo Quan và thân thích vì không hiểu mà vu oan cho một đứa trẻ ăn mày bị câm, khiến cho nhân quả báo ứng liên tục giáng xuống ba cô con gái vô tội của mình. Đó chính là sự trừng phạt của Thượng Đế và cũng là đạo lý nhân quả báo ứng. Đó không thể giải thích bằng khoa học mà phải thường xuyên đến Phật đường nghe kinh thuyết pháp, trí tuệ khai thông mới hiểu rõ sự bí ảo khôn lường của vũ trụ. Đó cũng chính là bài học cho những phần tử trí thức tiên tiến, phải đào sâu, phải tìm hiểu những tín ngưỡng của nhân sinh vũ trụ. 

    Nhân Quả Báo Ứng Thời Đại Khoa Học




     Một Con Ba Ba Ăn Theo Kỳ

    Em họ tôi là viện trưởng của một bệnh viện trực thuộc nhà nước. Gần đây tôi hay đến đó chơi, ông ấy kể cho tôi nghe một câu chuyện thú vị của một bệnh nhân trong bệnh viện, nội dung trong đó khiến cho người ta phát tâm hướng thiện. Bệnh viện mà em họ tôi đảm nhận là bệnh viện cỡ trung bình, bệnh nhân không đông, đa số là những người giàu và những bệnh nhân đặc biệt nghiêm trọng, vì thế mà viện trưởng là người trực tiếp phẫu thuật cho các bệnh nhân. Em họ tôi nói: "Từ khi làm bác sĩ đến nay tôi chưa bao giờ gặp phải một bệnh nhân như thế, suốt ba năm trời phải phẫu thuật ba lần, lần sau nặng hơn lần trước, cuối cùng một tay và một chân trở nên tàn phế".
    Bệnh nhân này tên là Văn Lai, có lần bị một con ba ba cắn bị thương một ngón tay lúc đầu đến bệnh viện bôi thuốc thì đã giảm đau, cho rằng không có gì quá nghiêm trọng nhưng nửa tháng sau vết thương ấy bắt đầu viêm và sưng lên đau nhức. Sau khi xét ngiệm xong, bác sĩ khẳng định là vi khuẩn độc đã xâm nhập vào xương, phải lập tức cưa ngay ngón tay để đề phóng vi khuẩn độc xâm nhập cơ thể gây tử vong. Thế là, bàn tay của anh ấy chỉ còn lại chín ngón. Chưa đầy nửa năm, Văn Lai tới bãi biển chơi thì bị tiếp một con ba ba cắn thương một ngón chân. Mấy ngày sau sưng lên phát viêm. Sau khi chụp X. quang xong, phát hiện vi khuẩn độc đã xâm nhập vào xương, phải lập tức cưa ngay ngón chân để an toàn tính mạng. Nhưng chưa đầy một năm, cả ngón chân và tay đều sưng lên phát viêm lại đến bệnh viện bôi thuốc. Không được nữa rồi, xương đã bị độc khuẩn xâm nhập, loại độc khuẩn này có khả năng gây ung thư cần phải lập tức cưa ngay cả bàn tay và bàn chân. Bệnh nhân đồng ý phẫu thuật. Sau khi điều trị trong hai mươi ngày trở thành một người chỉ còn một tay và một chân.
    Tình trạng bất hạnh của Văn Lai khiến cho mọi người bàn tán xôn xao, mọi thứ đều diễn ra trong chớp nhoáng. Thì ra có một hôm, con trai của người bà con đi tu làm hòa thượng, Văn Lai cũng theo mọi người đến tham dự, tá túc tại Phật tự một đêm. Những người cùng ngủ chung có đến bốn, năm mươi người, nhưng tai họa lại giáng xuống đầu anh ấy.
    Đột nhiên có con chuột bò đến, trong đoàn có bốn, năm mươi người mà con chuột lại cắn vào vết thương của anh ấy, khiến anh đau nhói tỉnh dậy, làm kinh động mọi người xung quanh. Tuy chỉ bị xước da chảy máu nhưng mọi người đều bắt đầu tranh luận, nói rằng: "Con chuột vốn chỉ cắn những phế vật vô tri, vô giác, làm gì mà bị chuột cắn chứ? Điều đó chứng tỏ là anh ấy chỉ là một cái xác vô hồn nên chú chuột mới dám cắn". Nghe mọi người nói như vậy khiến Văn Lai giật thót người cảm thấy mình không thể sống lâu được nữa. Tuy mọi người khuyên anh đừng mê tín, nhưng anh ấy vẫn cảm thấy có gì ám ảnh, vết thương ở tay và chân có lúc lại bộc phát đau âm ĩ, ngứa ngáy đến không thể chịu đựng được. Cuối cùng chịu không được áp lực trong lòng và vết thương ngày càng đau đớn nghiêm trọng, anh lại tới bệnh viện kiểm tra lần nữa.
    Sau khi đã được bác sĩ kiểm tra ti mỉ, bản chụp X. Quang cho thấy vết thương bị độc khuẩn xâm nhập vào xương. Nhưng lần này xuất hiện vi khuẩn gây ung thư, phải cưa ngay cả cánh tay và chân đi. Ba năm nay, phải phẫu thuật năm lần bảy lượt khiến cho viện trưởng vô cùng kinh ngạc cho đó là người lạ việc lạ, bèn điều tra thân thế của anh.
    Văn Lai năm nay bốn mươi ba tuổi làm nghề nông. Vì hoàn cảnh gia đình, anh phải làm thêm nghề thợ hồ. Thường ngày thích uống rượu, đặc biệt rất thích ăn những con ba ba tươi sống. Nghe nói cả đời ăn đủ mười đến hai chục con thì sẽ không bị bệnh phong thấp viêm xương, vả lại còn bổ thận. Vì thế mỗi ngày, anh ấy đều xào ba ba với ớt, nhắm nháp một hủ rượu trắng, cảm thấy cuộc đời thật đẹp biết bao. Mỗi ngày đều mua một con ba ba về, suốt cả mười mấy hai chục năm nay vẫn ăn như thế.
    Một hôm, Văn Lai ở chợ mua được một con ba ba nặng hơn mười ký lô, anh vô cùng mừng rỡ, không muốn ăn hết ngay. Món cao lương như thế thưởng thức một lần thì quá tiếc, một mình ăn một con thì quá nhiều, nhà lại không có tủ lạnh. Anh ấy suy đi nghĩ lại, rốt cuộc nghĩ ra một diệu kế, đó là ăn ba ba theo kỳ. Vì ba ba là giống động vật trường thọ không dễ chết, bất luận nhốt ở chỗ nào, vẫn có thể sống dai. Mưu kế kỳ diệu của anh là hôm nay ăn bao nhiêu thịt thì cắt bấy nhiêu, sau đó bôi một lớp thuốc đỏ vào vết thương, như thế con ba ba có thể ăn được từ mười ngày đến nửa tháng. Bởi lẽ, nó chỉ tắt thở khi bị cắt đầu. Sau lần đó, Văn Lai cứ theo đó mà ăn biết bao nhiêu con ba ba. Tuy nhiều người đã bảo anh ta hãy ngưng ngay cái thủ đoạn tàn nhẫn vô lương tâm đó. Nhưng anh ấy vẫn mặc kệ, miễn là được thưởng thức món ba ba tươi ngon là được. Cứ thế mà ăn cho tới lúc cơ thể bị cưa đi theo từng đợt, phải chịu đựng đủ mọi sự giày vò về thể xác. Viện trưởng đã thu thập tất cả các tài liệu liên quan đến bệnh nhân và đưa ra một câu kết luận rằng: "Nếu không có căn cứ khoa học thì không thể nào tin sự thật lại có nhân quả báo ứng". 

    15 ĐIỀU PHẬT QUY






    MỤC LỤC

    1. Tôn Kính Tiên Phật
    2. Tuân Tiền Đề Hậu
    3. Tề Trang Trung Chánh
    4. Tuần Quy Đạo Củ
    5. Trách Nhiệm Phụ Khởi
    6. Trọng Thánh Khinh Phàm
    7. Khiêm Cung Hòa
    8. Ái Vật Khí Thánh Huấn
    9. Mạc Chước Hình Tướng
    10. Thủ Tục Tất Thanh
    11. Xuất Cáo Phản Diện
    12. Bất Loạn Hệ Thống
    13. Ái Tích Công Vật
    14. Hoạt Bát Ứng Sự
    15. Cẩn Ngôn Thận Hành

    Lời giới thiệu 
    Ơn của Trời Đất không nơi nào không được ban bố, từ bi của Tiên Phật thực sự có thể cảm nhận được, khó mà báo đáp được, cảm tạ HOÀNG THIÊN từbi, cảm tạ lòng ái từ của Tiên Phật, vì sợ chúng sanh thời mạt hậu này căn cơ thấp kém, khó tu được trở về trời, cho nên nhiều lần lâm đàn, vẫn đem chân ý của 15 điều Phật Quy trình bày lại, lần thứ nhất là ở Thái Lan, Liên Hoa Phật đường, vào ngày 12 tháng 7 năm 1997, lúc tiết ôn tập lại 3 ngày pháp hội, Hán Chung Ly Đại Tiên từ bi lâm đàn tường thuật. Lần thứ 2 vào ngày 5 tháng 12 cùng năm tại Malaysia, Chánh Nghĩa Phật đường, lúc mở lớp Phật quy , Hoạt Phật Ân Sư lâm đàn thuật lại lần nữa ,vào ngày 28 tháng 2 năm 1998 (Âm lịch mùng 2 tháng 2), ngày Thánh đản của Tế Công Hoạt Phật, tại Đài Bắc, Nhân Đức Phật đường, Hoạt Phật Ân Sư lại một lần nữa lâm đàn độ hóa, cũng đem hàm ý của 15 điều Phật quy bổ sung thêm và giảng rõ hơn, càng được hoàn thiện. Hán Chung Ly Đại Tiên có nói: "Đừng xem thường 15 diều Phật quy, đây là bậc thang tốt nhất nêú như chiếu theo mà hành thì thành Phật có dư."
    Nay tập hợp lại ý nghĩa trọng yếu của ba thiên huấn văn trên, hy vọng mỗi một vị Tiền Hiền có tâm tu Đạo bàn Đạo, đều có thể thâm hiểu chân nghĩa 15 điều Phật Quy này, đồng thời vĩnh viễn cảm ơn Thiên Ân và báo đáp Thiên Ân!

    1.Tôn Kính Tiên Phật 
    Các vị tôn kính Tiên Phật, không những chỉ là tôn kính Tiên Phật nhìn thấy bên ngoài, mà còn phải tôn kính vị Tiên Phật ở trong lòng mình nữa. Các trò đều rất tôn kính Tiên Phật trong Phật đường, nhưng còn vị tự tánh Phật trong lòng thì sao? Trò có tôn kính không? Có thật sự kính trọng không? Các trò nếu có chút chuyện thì luôn luôn nghĩ đến cầu xin Tiên Phật, có bao giờ nghĩ đến cầu cứu ở bản thân mình, vị tự tánh Phật đó không? Phật nói: "Tức tâm tức Phật" "Tâm tức thị Phật", vậy thật sự Phật tại đâu đây? Thật ra Phật tại trong tâm các vị! Chỉ là các vị làm tất cả mọi việc đều không rời tự tánh, ngoài ra không trái với Phật hành, mọi việc đều hợp với thiên lý tất cả không trái với lương tâm, như thế mới thật sự là tôn kính Tiên Phật! Cũng như Phục Thánh Nhan Hồi đắc nhất chỉ điểm thì "quyền quyền phục ưng"*, cái quyền quyền phục ưng thành tâm bảo thủ đó mới chính là tôn kính Tiên Phật ở bản thân mình. Vì sao Nhan Hồi phải "quyền quyền phục ưng" như vậy? Tại vì ông ta biết được cuộc sống của con người rất ngắn ngủi, việc đời thật vô thường, cho nên ông ta muốn nắm lấy cơ hội đi hành thiện, đi tích đức, tranh thủ cơ hội đi hành công đi lập đức. Nhan Phu Tử rất thông minh, ông biết con người khó sống tới trăm tuổi, cho nên không hướng ngoài tu, không hướng nhìn bên ngoài, chỉ hết lòng hướng về nội tâm để tu tự tánh Phật của mình, chuyên tâm chuyên ý sửa đi thói hư tật xấu, cho nên mới có thể tu đến cảnh giới "bất thiên nộ, bất nhị quá"** , 32 tuổi đã trở thành Thánh nhân kiệt xuất, nếu như không phải hướng vào nội tâm tu, tôn kính tự tánh Phật thì có thể thành tựu như thế không? Tăng Phu tử cũng tu hành như nhau, đã từng nói qua: "Ngô nhật tam tỉnh ngô thân: Vi nhân mưu nhi bất trung hồ? Dĩ bằng hữu giao nhi bất tín hồ? Truyền nhi bất tập hồ?", là mỗi ngày phản tỉnh: Tôi làm việc cho người ta đã tận tâm tận lực không? Giao tiếp với bạn bè có chân thật hoặc thất tín không? Những gì Thầy dạy mình có nỗ lực chăm chỉ học tập và ôn lại không? Hai người đều để việc tu đi đầu, ngưng trên phương diện một người hướng nội, một người hướng ngoại, chỉ có một sai biệt nho nhỏ mà sau này thành tựu tự nhiên có cao có thấp khác biệt hẳn.
    Nếu như các vị hướng nội tu, lấy cái tự tánh Phật làm chủ, thì thứ bậc tự nhiên sẽ cao; nếu như hướng ngoại tu, chú trọng về ngoại tướng, thì tầng thứ tự nhiên sẽ thấp. Tuy là thấy sự sai biệt chỉ rất nhỏ, nhưng phải ghi nhớ điều sai biệt rất nhỏ này, cho nên mới nói "sai chi hào li, mậu dĩ Thiên Lý". Các đồ đệ hãy xem Nhan Phu-tử, ngày ngày đêm đêm nghiêm túc chăm chỉ sửa đi thói hư tật xấu, tu tâm tánh, vun bồi nội đức, vả lại nắm lấy thời cơ hành thiện, hành Đạo, giờ phút nào cũng phải cẩn thận và rất sợ hãi về giới luật như gần vực thẳm, như đi trên băng mỏng, rất sợ mình mất phải sai lầm dù nhỏ như tơ, giờ phút nào cũng hồi quang phản chiếu, dùng cái giác đế làm Thầy, cho nên cái sinh mạng ngắn ngủi đó đã được thành tựu một vị Thánh nhân. Mà Tăng Phu-tử cũng tu tâm như vậy, nhưng chú trọng về đãi người và xử thế, là những cái có hình tướng. Cho nên thành tựu Thánh nhân có cao thấp, rốt cuộc là chỉ khác nhau có một chút. Vì vậy các vị phải biết nắm bắt lấy cơ hội tốt nhất, ở Tam Kỳ mạt kiếp này, phải thật tốt tôn kính vị Tiên Phật trong bản thân mình, "nhị lục thời trung, doãn chấp quyết trung", cho nên luôn luôn giữ lấy trung Đạo, đồng thời phải nhận lý thật tu, "Thị lý tắc tiến, phi lý tắc thối", nếu như tôn kính vị tự tánh Phật của mình đến cực điểm, là lúc tâm của trò quên đi cái bản ngã, cũng tức là lòng trò chỉ có Đạo mà không có tự ngã, khi đó trò đã đạt tới cảnh giới "vô nễ ngã, không thị phi"; vả lại lúc " thanh tâm quả dục" "hồn nhiên vong ngã" "nhất phiến Thiên tâm" " vô nễ vô ngã" lúc đó cũng là tự tánh Phật của các trò được lộ hiện, đó mới thật sự là Tôn Kính Tiên Phật !

    2. Tuân Tiền Đề Hậu
    Cái gì gọi là "Tuân Tiền"? Cái gì gọi là "Đề Hậu"? Tiền là chỉ Tiền Hiền, hậu là chỉ Hậu Học. Người như thế nào mới đủ tư cách gọi là Tiền Hiền? Và người như thế nào mới thật sự là Hậu Học? Các đồ đệ, các trò đều nói, người cầu Đạo sớm gọi là Tiền Hiền, hoặc lãnh Thiên Mệnh sớm thì gọi là Tiền Hiền; và người Dẫn Sư, Bảo Sư , Điểm Truyền Sư của mình đều gọi là Tiền Hiền, có phải không? Các trò chỉ nhận định vẻn vẹn những Tiền Hiền trên Đạo trường có hình tướng bề ngoài đó thôi sao? Các trò có biết rằng người có đức hạnh đủ, có trí tuệ cao, lời nói và việc làm nhất trí với nhau, làm cho mọi người mến phục, đủ để làm gương cho mọi người, đủ tài năng dẫn dắt mọi người thì mới đủ tư cách gọi là Tiền Hiền. Cũng chỉ có như vậy, những Tiền Hiền đó mới đủ tư cách để mọi người tôn kính, mới để cho chúng sinh tự trong đáy lòng thật sự tuân theo! Nếu như trò đức hạnh không đủ, trí tuệ không đủ, đã mù còn một mực hướng dẫn chúng sinh cùng mù thì khác chi dắt nhau vào hố lửa, lại làm sao thật sự hướng dẫn chúng sinh trở về Lý Thiên? Trò không thể lãnh đạo chúng sinh trở về Lý thiên, trò có tư cách nào gọi là Tiền Hiền?
    Đồng thời ai mới thật sự là Hậu Học đây? Có phải là người cầu Đạo sau, hay là lãnh Thiên Mệnh? hoặc là người được Dẫn Bảo Sư dẫn? đồ đệ ơi, Thiên thời đã đến lúc mạt hậu rồi, nếu như các trò còn không thể phá bỏ tất cả những hình tướng, trở về thật sự cái tự tánh, cứ chấp vào hình tướng thì chỉ uổng phí mà thôi, nếu như vậy, trò làm sao thật sự được giải thoát? Mà phải thật sự nhận thức được tự tánh MẪU NƯƠNG nữa? Đồ đệ ơi, những ai còn đang học Đạo, tu Đạo, bàn Đạo, và những chúng sinh chưa được giải thoát sanh tử luân hồi, tất cả đều là Hậu Học đó thôi! Tất cả còn phải cần đến chân lý của Tiên Phật Bồ Tát chỉ dẫn, thì chúng sinh mới có thể từ mê chuyển ngộ!
    Này đồ đệ các trò nói, người nào mới thật sự là Tiền Hiền, và người nào mới là Hậu Học đây? Vì thế, cái thật sự là "Tuân Tiền Đề Hậu", là muốn trò noi theo Thánh Hiền, tôn kính học tập theo những người có Đạo, đồng thời phải đề tâm hạ khí, giúp đỡ chúng sinh, để mỗi một người có duyên với mình đều được sự dìu dắt giúp đỡ, thật sự được siêu phàm nhập Thánh, thoát khỏi luân hồi! Thậm chí cả trong Phật đường cầu Đạo sớm hơn mình, lãnh Mệnh sớm hơn mình, cả những vị Tiền Hiền có tư cách hơn mình, nếu như trò hiểu được Đạo lý "Văn đạo hữu tiên hậu, nhân duyên hữu khoái mạn"*, đồng thời người đó thật tâm tu Đạo cung kính mọi người, thì làm sao đối với họ lại không tôn không kính, không nghe theo lệnh mà đi làm ư? Còn những vị cầu Đạo sau mình, cần sự dìu dắt giúp đỡ của mình, nếu như mình có lòng từ bi noi theo Tiên Phật thì làm sao trong lòng lại không thương yêu dìu dắt hơn nữa. Cho nên, cái thật sự "Tuân tiền đề hậu", là muốn chúng ta học tập bỏ đi cái chấp vào bản ngã, và tôn kính Tiền Hiền, dìu dắt Hậu Học, đồng thời còn phải từ bi với tất cả những người có duyên với mình. 

    3. Tề Trang Trung Chánh
    Cái gì gọi là "Tề Trang Trung Chánh"? Có phải là các trò đến Phật đường, y phục mặt rất chỉnh tề, đầu tóc gọn gàng, dáng mạo đoan trang thì gọi là "Tề Trang Trung Chánh" hay sao? Nếu như tâm của trò không được thanh, lòng còn đầy dục vọng, mắt ham nhìn sắc đẹp, mũi thích ngửi mùi thơm, miệng thèm ăn vật ngon, tai thích nghe lời diệu, thân muốn ngủ giường tốt, mặc áo đẹp, ý thì nghĩ đông nghĩ tây, dẫy đầy vọng tưởng, như vậy còn cho là "Tề Trang Trung Chánh" hay không? Cho nên, chỉ là tu bề ngoài mà không tu nội đức, để cho mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý nhiễm đầy bụi trần, trong lúc đó, quần áo của trò dù có sạch sẽ, bề ngoài thật đoan trang, cũng đều không thể cho là thật sự "Tề Trang Trung Chánh" đâu. Cho nên cái "Tề Trang Trung Chánh", không chỉ là đầu tóc gọn gàng, y phục chỉnh tề, bề ngoài trang nghiêm, mà là muốn nội tâm của trò phải trang trọng, mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý cũng đều phải trang trọng; nói một cách khác, có thể làm cho nội tâm toàn vô tạp tư tạp niệm, tự giữ được sự trang trọng, đó mới chính là "Tề Trang Trung Chánh". Như vậy các trò phải làm thế nào mới được Tề Trang Trung Chánh đây? Trước tiên, có phải là chánh kỷ, rồi sau mới có thể chánh nhân? Nếu muốn chánh kỷ, có phải là hồi phục lại bản tánh quang minh của mình trước, rồi mới có thể cảm hóa và ảnh hưởng được tới người khác? Nếu như bản tánh quang minh của trò được hồi phục và sau đó được biểu lộ ra, thì trò còn phải giữ chặt cái lễ này, lời nói hợp với Đạo, hành vi có phép tắc, như vậy mới thật sự ảnh hưởng được Đạo thân, dẫn dắt được Đạo thân, bằng thái độ Tề Trang Trung Chánh. Các trò phải biết rằng, thời kỳ mạt hậu này, Đạo nếu chỉ giảng thôi thì vô dụng, Đạo vốn không phải để giảng mà là phải thực hành. Vậy làm sao hành đây? Đó là dùng cái bản tánh quang minh, biểu hiện ra ở hành vi đoan trang, để cho lời nói và cử chỉ của mình hợp với Lễ. Trong tâm trong sạch vô nhiễm, ý niệm không thiên không tà, thất tình lục dục không còn khởi dậy, thì mới thật sự là "Tề Trang Trung Chánh" đấy! 

    4. Tuần Quy Đạo Củ
    Cái gì gọi là "Tuần Quy"? cái gì gọi là "Đạo Củ"? Thế nào là tuân theo quy, và thế nào là hành theo củ? Cái gọi là "Tuần Quy", đó là tuân theo Phật quy cần phải giữ mà đi làm; cái gọi là "Đạo Củ", đó là mỗi con người có thể giữ đúng cương vị mà hành, có thể đứng trên cương vị của mình vững chắc mà đi, đó mới gọi là "Tuần Quy Đạo Củ". Như vậy tại sao phải định ra Phật quy? Tại vì các trò đến cầu Đạo, rồi sau khi cầu Đạo còn phải làm việc gì? Có phải là muốn thành Tiên thành Phật thành Thánh, việc làm đó phải không? Nhưng nếu không chiếu theo quy tắc mà đi làm thì có thể thành Tiên thành Phật thành Thánh được không? Cho nên mỗi con người giữ lấy cương vị, tuân theo quy tắc mà hành là điều kiện cơ bản nhất. Phật quy được quy định tốt như vậy, mà các trò lại không chiếu theo đi làm, thử hỏi đồ đệ ơi, các trò có thể thành Tiên thành Phật được không? Ví dụ bảng giới luật không phát tiếng nói kia treo trên tường, là do Điểm Truyền Sư hoặc người lo liệu quy định, các trò lại xem như không nhìn thấy, ngoảnh mặt làm ngơ, vẫn cứ lén lút nói chuyện, như vậy là có tuân theo quy tắc không? Mà Điểm Truyền Sư cũng giống như cha mẹ, hằng ngày Điểm Truyền Sư quy định những điều hợp lý, các trò không nghe theo, chỉ nghe lời Tiên Phật mượn khiếu, như vậy có phải là các trò chấp hình chấp tướng và lại còn có tâm phân biệt hay không? Cho nên, dù thế nào đi nữa, những điều Điểm Truyền Sư quy định, chỉ cần hợp với Lý, thì tất cả nên chiếu theo mà làm, như vậy mới là "Tuân Quy Đạo Củ".
    Nhưng tuân theo phép tắc không phải chỉ có tuân theo Phật quy bên ngoài thôi đâu, các trò còn phải luôn luôn tự hỏi mình: có tuân theo quy tắc Phật đường trong lòng mà đi làm việc không? Cái gì gọi là quy tắc Phật đường trong lòng vậy? Đó là "Nhân chi sơ tánh bổn thiện". Người người ai cũng vốn có cái lương tâm, trò phải tự hỏi mình, làm người, cái việc làm có theo lương tâm không? Có chiếu theo Phật quy lương tâm mà đi làm không? Đối với người có chân thành không? Có từ bi không? Lương tâm của trò chính là Phật quy! Tu Đạo hành Đạo đừng có nhìn ở bề ngoài, mà phải nhìn vào bên trong. Phật quy bên ngoài tất nhiên phải tuân thủ, nhưng Phật quy bên trong lại càng phải lưu ý hơn, đèn Phật trong lòng cần phải thường xuyên lau chùi, để mình không hủy bối đi cái Thiên lý lương tâm, đó mới thật sự là "Tuần Quy Đạo Cũ".

    5. Trách Nhiệm Phụ Khởi
    Cái gì gọi là "Trách nhiệm"? Đó là chức trách, nhiệm vụ, đó cũng là mỗi một con người cần phải hết lòng làm tròn bổn phận của mình. Này đồ đệ, các trò nói xem, mỗi một đệ tử của Thiên Đạo có trách nhiệm gì đây? Và có sứ mệnh gì đây? Có phải là có sứ mệnh Tiên Thiên, và cũng có nhiệm vụ Hậu Thiên? Cái gọi là sứ mệnh Tiên Thiên, đó là độ tận chín sáu ức Nguyên Phật tử, để cho chín sáu ức Nguyên Phật tử đều được đạt bổn hoàn nguyên, trở về Vô Cực Lý Thiên; cái gọi là nhiệm vụ Hậu Thiên, đó là hóa độ lòng người trong sạch, xúc tiến vào đại đồng, để mọi người phẩm chất đoan chánh, gia đình viên mãn, xã hội hòa ái, các vị thử nói trách nhiệm này có nặng hay không? Có tôn quý không? Giả sử các vị ai cũng tận tâm tận lực thay Trời tuyên hóa, noi theo Thánh Hiền, Chánh kỷ thành Nhơn, đem sự tôn quý của Đạo hiện lộ trên bản thân các vị, và ứng dụng trong sinh hoạt hàng ngày, để lương tâm của mình được thanh thản, không hổ thẹn, để người trong gia đình hoan hỷ, biết cảm ân, để xã hội được bình yên thái hòa, để nhân loại được hạnh phúc vui sướng, để cho chín sáu ức Nguyên Phật tử tự tánh đều được hồi phục, đó mới là làm tròn trách nhiệm. Lúc này là thời kỳ mạt hậu, cũng là lúc gấp rút nhất, các vị phải ghi lòng tạc dạ, giữ cho tâm niệm của mình được tốt, hành vi được đoan chánh, cẩn thận tất cả những ảnh hưởng không tốt, càng không nên khi ở Phật đường thì cung cung kính kính, nhưng về đến nhà thì cứ luôn hấp tấp, phóng đãng, các vị không thể đem Đạo mà thực tiễn ra, như vậy là đối với Đạo không làm tròn trách nhiệm đấy!

    6. Trọng Thánh Khinh Phàm
    Hễ làm việc, bất luận là làm việc Phật hay việc Thánh, hoặc làm tất cả mọi việc đều lấy đại chúng làm đầu, chúng sinh làm trọng, đó mới là trọng Thánh; ngược lại, nếu như lấy việc cá nhân làm đầu, cho mình là trọng, như vậy là trọng phàm. Cho nên tất cả những việc có lợi ích cho chúng sanh đều là Thánh sự. Có thể xem trọng việc này, đó là trọng Thánh, đồng thời cũng là khinh phàm. Cho nên người thật sự trọng Thánh khinh phàm, người đó không bao giờ chỉ lo cho riêng bản thân mình, mà cũng không màng tới người khác có tôn kính mình, thương yêu mình, nuôi dưỡng mình hay không, trong lòng người đó chỉ có cái lợi cho chúng sanh làm đầu, làm việc gì cũng suy nghĩ lấy đại thể làm trọng, người như vậy mới đích thực làm được trọng Thánh khinh phàm. Mà cái gì mới thật sự cho là việc Thánh đây? Lại việc gì mới thật sự đem lại lợi ích cho chúng sinh? Các vị nói xem, trong vũ trụ này, trong Trời đất này, ngoại trừ Đạo là thật, cái Linh Tánh là thật, thì còn có cái gì vĩnh hằng bất biến không? Cho nên các vị giúp đỡ chúng sinh, thành tựu được chúng sinh, để tâm tánh được giải thoát, đi vào con đường siêu phàm nhập Thánh, mới thật sự là trọng Thánh khinh phàm; các vị có thể tu dưỡng mình, thành tựu mình, bỏ đi cái nhân tâm, Thiên Lý lương tâm được lộ hiện, đó cũng là trọng Thánh khinh phàm. Nếu như nhân tâm không trừ, dục niệm trôi nổi, Thiên Lý lương tâm bị mê mờ, lúc nào vô minh cũng khởi, thì làm sao nói là trọng Thánh khinh phàm đây? Lại như thế nào mới được siêu phàm nhập Thánh? Những vấn đề này, các trò cần phải suy nghĩ tìm tòi cho kỹ càng hơn, bởi vì tu Đạo bàn Đạo, chỉ có một mục đích cuối cùng, đó là bỏ đi tất cả cái cố chấp bản ngã, hồi phục Thiên tâm bổn lai cho được thuần khiết. Các đồ đệ ơi, trong khi tu Đạo tu tâm, trong quá trình đó nếu như các trò không có lòng chí thành, không có lòng bất biến, không có lòng vô oán vô hối, thì không lộ hiện ra được Thiên tâm Phật tánh, thì làm sao nói là trọng Thánh khinh phàm được đây?

    7. Khiêm Cung Hòa Ái
    Khiêm Tốn Cung Kính Hòa Ái, chẳng phải chỉ là đối với Tiền Hiền, Điểm Truyền Sư, Giảng Sư, mới khiêm tốn cung kính thôi đâu, mà các vị với mọi người đều có hết lòng cung kính không? Các vị tự suy nghĩ xem, là một người tu Đạo, có phải cần đối xử với mọi người Khiêm Cung Hòa Ái hay không? Người nào có nghiên cứu về Kinh Dịch thì sẽ rõ, trong 64 quẻ, là có 63 quẻ đều là trong hung có kiết. Trong kiết có hung, Hung là không tốt duy nhất chỉ có một quẻ, đó là quẻ khiêm, chỉ có kiết mà không có hung, chỉ có phước mà không có họa, vì sao vậy? Trong Kinh Dịch nói: "Khiêm, hanh, quân tử hữu chung". Đó là dùng thái độ khiêm tốn hòa ái để làm việc, ắt sự việc sẽ dễ làm hơn, thông đạt hơn.Thái độ khiêm tốn hòa ái là do trong tâm tu dưỡng mới có được, không phải miễn cưỡng làm ra được, cũng chỉ có người quân tử mới có thể từ đầu chí cuối khiêm tốn hòa ái, mà không ngạo mạn với người. Trong Kinh Dịch lại có câu: "Nhân đạo ác doanh nhi hảo khiêm", ai ai cũng đều ghét người kiêu ngạo khinh mạn, mà thích người khiêm tốn có Đạo. Cho nên người biết khiêm tốn người đó có thể bộc lộ một nhân cách tôn quý, cùng hiện ra được cái tự tánh sáng lạng, tưởng chừng ở chỗ thấp hèn, nhưng thật sự người đó nhân cách rất cao thượng, khó vượt qua đấy! Đó cũng là một người quân tử có Đạo bên trong người đó tích giữ những cái tốt đẹp nhất mà được biểu hiện ra, tại vì người đó đã buông xuống hết cái bản ngã, mà cung kính tất cả chúng sinh. Cho nên sự khiêm tốn cung kính hòa ái, lúc đó cũng là tự tánh Phật của trò được lộ hiện, bởi vì khi trò khiêm tốn nhã nhặn, đề tâm hạ khí, không phân biệt người và ta, là lúc trò không có ý niệm thị phi, cũng là lúc ấy cái chơn ngã Phật tánh của trò mới được lộ hiện. Cho nên người khiêm cung hòa ái, nhất định sẽ được thành Đạo. Ngược lại kẻ kiêu ngạo, khinh khi người khác, tuyệt đối không thể thành Đạo, tại vì trong lúc kiêu ngạo, cũng là lúc chưa bỏ đi cái nhân ngã, lòng cố chấp vẫn còn tồn tại; mà cuối cùng cửu phẩm liên đài cũng thuộc về người Khiêm, Cung Hòa Ái. Cho nên, các vị muốn thành Tiên thành Phật, lại há nào không khiêm cung hòa ái hay sao?

    8. Vật Khí Thánh Huấn
    Huấn thư là lời chỉ dạy của Thánh Nhân, cũng có thể là tất cả Thánh lý được ghi lại bằng văn tự; nói cách khác, đó là lời nói của Thánh Hiền Tiên Phật. Thánh Hiền Tiên Phật tóm lại nói những gì?, Thiên ngôn vạn ngữ, đều là nói lời Chân lý, nói chúng sanh phải tu như thế nào mới được trở về Trời, cũng là nói những lời dẫn dắt chúng sinh phải như thế nào để cải tà quy Chánh, từ mê chuyển ngộ. Tại vì Thánh Hiền Tiên Phật là do người đã tu thành Đạo. Cho nên những lời nói đó có thể đại biểu cho Đạo, đại biểu Chân lý, mà mỗi chữ trong Thánh huấn, mỗi một câu đều là từ trong tự tánh Tiên Phật thổ lộ ra, tùy các loại nhân duyên chúng sanh mà thuyết giải, cho nên lời nói đó là Chân Kinh, đó thật sự cũng là Phật tánh được thổ lộ, là con thuyền dẫn dắt về Thiên Đàng. Vì thế các đồ đệ ơi, những lời huấn của Tiên Phật tôn quý như vậy đó, sao các đồ đệ không biết quý trọng hơn và nhận thức Chân nghĩa trong đó mà cố gắng đi thực hiện! Cái gọi là "vật khí", đó là cái không thể bỏ đi, không thể xem thường, không thể không chiếu theo mà làm. Tại vì mỗi một trang huấn văn hoặc Kinh sách, đều là tâm huyết của Tiên Phật, những từ ngữ đó tự nhiên đều được Tiên Phật hộ trì, nếu các đồ đệ mang nó theo bên mình, chỉ cần có cái tâm chánh, tâm thành thì trong vô hình nó có thể phù hộ cho các đồ đệ, cũng có thể tránh xa nạn tà, như vậy làm sao lại có thể lại xem thường vứt bỏ nó, mà không coi trọng nó hơn? Thánh huấn cũng là chỉ dẫn chúng sinh thế nào để đi lên con đường thành Thánh Hiền, đồ đệ ơi, vậy mà các trò không chiếu theo đi làm, thì làm sao tu Đạo được thành tựu, mà thật sự thành Tiên thành Phật đấy, huống hồ Tiên Phật đều Đại từ Đại bi, đều vì việc sanh tử đại sự của các vị mà nỗ lực phí tận tâm huyết, các vị làm sao lại nhẫn tâm khinh thường, phụ lòng mà không chiếu theo đi làm. Cho nên "Vật Khí Thánh Huấn", thật sự cái hàm ý là nhận thức được lòng từ bi của Tiên Phật, hiểu rõ chân ý của thư huấn, sau cùng là phải y theo lời huấn mà thực hành, mới có thể thành Thánh thành Phật được!

    9. Mạc Chước Hình Tướng
    Mạc Chước Hình Tướng là không chấp vào hình bên ngoài, mà bị nó che lấp đi. Tại vì tất cả các thứ có hình có tướng, rốt cuộc đều không phải là thật, cuối cùng đều tiêu tan trong mộng ảo vô thường. Kinh Kim Cang có nói: "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai". Cho nên, nếu như không thể phá bỏ hình tướng, người nào còn mê muội vào hình tướng, tâm người đó còn tại trong Tượng Thiên và Khí Thiên, đều không thể tiến vào Vô Cực Lý Thiên. Mà chúng sinh nào còn mê muội điên đảo, thì không thể thật sự được giải thoát, đều còn bị hình tướng bên ngoài ràng buộc, tâm còn bị hình tướng sai khiến, tự tánh không thể làm chủ được, vĩnh viễn trong vòng luân hồi, lưu lãng trong vòng sanh tử. Cho nên đừng chấp vào hình tướng, cũng không chấp vào Tiên Phật mượn khiếu hiển hóa, mà phải ngộ được sự khai thị Chân lý của Tiên Phật, lấy chân nghĩa vi diệu ấy làm trọng. Tiến thêm một bước nữa, là muốn các trò bất cứ trong tình cảnh nào, tâm cũng không đều bị dao động, tự tánh vẫn làm chủ, đó mới thật sự là không chấp vào hình tướng. Này đồ đệ, các trò thường nói: "Bất thiên chi vị trung, bất ỷ chi vị dung". Vật trung Đạo rốt cuộc là gì? Đó chính là trong những lúc tự tánh Phật được lộ hiện ra. Như vậy là nói như thế nào đây? Là trong lúc tâm các vị được thanh tĩnh vô vi, không thiên bên nào, và không chấp vào một vật gì, cũng là trong lúc đó các vị không chấp vào hình tướng, tâm không bị cảnh vật bên ngoài làm chi phối lung lay, lúc này tâm các vị đã đạt đến thanh tĩnh vô vi không chút vọng cầu, đó chính là "Trung Đạo", cũng chính là tự tánh Phật được bộc phát ra. Cho nên, không chấp vào hình tướng, cũng là lộ ra cái chân ngã của mình! Nếu như các vị chấp vào hình tướng thì sẽ vĩnh viễn lưu lãng trong sanh tử, tuyệt đối không thể thành đạo được! 

    10. Thủ Tục Tất Thanh
    Cổ thư nói: "Phật gia nhất văn tiền, đại tựa Tu Di sơn, khi tâm bất thực báo, phi mao đái giác hoàn". Đồ đệ các trò có hiểu không? Tại sao tiền của nhà Phật, vốn là tiền mồ hôi của chúng sinh, dù cho là rất ít, cũng là tấm lòng thành của người thí chủ mà có, nhưng lúc đã thành tiền của nhà Phật rồi, thì nó lớn tựa núi Tu Di vậy! Cho nên, nếu có người hành tài thí, tuy là trò chỉ xài có một đồng đi chăng nữa, chỉ một ý niệm của lòng tham, không có khai báo thật thà, thủ tục không được rõ ràng, thì tự nhiên phải chịu sự nhân quả báo ứng, thậm chí kiếp sau phải làm thân trâu ngựa để trả. Cho nên, các đồ đệ ơi, những món đồ vật hoặc tiền tài do Đạo thân hành công, nhất định phải thật rõ ràng, không thôi sẽ khởi lên lòng tham, hành sự sẽ hồ đồ, không giữ được lòng liêm sĩ, thì sau này sẽ rất khổ sở, điều này Thầy nhắc nhở các trò phải nên cẩn thận!
    Vì luật Trời rất nghiêm ngặt, cho đến sợi tơ cũng phải rõ ràng, ở trên Trời mỗi người đều có một quyển sổ, cuốn sổ đó ghi rất rõ ràng từng li từng tí những hành động của các trò, và tuyệt đối không để sơ sót dù chỉ nhỏ như sợi tơ. Cho nên, sau này trong Phật đường, có người hành công bằng đồ vật hoặc tiền tài, các trò nhất định phải khai báo thật rõ ràng, không được hồ đồ, như vậy mới là "Thủ tục tất thanh", và mới có huy vọng thành Phật được đấy!

    11. Xuất Cáo Phản Diện
    Xuất là ra, là rời khỏi; cáo là báo cáo, bẩm cáo; phản là phản hồi, trở lại; diện là trả lời đối diện. Cái gọi là "Xuất Cáo Bản Diện", đó là Tiền Hiền dặn dò những việc gì, bất luận lớn hay nhỏ, lâu rồi hay mới đây, đều phải ghi nhớ trong lòng, mà chăm chỉ đi làm, sự việc làm xong, phải bẩm báo lại rõ ràng, không được sai sót. Là người Hậu Học, một khi ra ngoài làm việc, nên thỉnh thị Tiền Nhân, bẩm báo Tiền Nhân, với tấm lòng thành thỉnh cầu chỉ thị, tiếp thu sự chỉ đạo. Mỗi khi đi đâu trở về, đều phải mau mau bẩm báo lại mọi sự việc đã làm như thế nào, để khỏi sự lo lắng bận tâm của Tiền Hiền. Điều Phật quy này là để nhắc nhở người tu hành đối với người phải tận trung, đối với sự việc phải tận trách nhiệm, đồng thời trên dưới có tôn ti trận tự, ra vào có Lễ. Như vậy, sự việc nào cũng được "Xuất Cáo Phản Diện", dặn dò bàn giao tốt đẹp, đó là cái Đạo nhân luân, mới không thiếu sót. Cũng như chín sáu ức Nguyên Phật tử thừa nguyện mà xuống trần gian, lúc ra đi có báo cáo, khi trở về phải đối diện bẩm báo, là lúc ghi tên vào tờ biểu văn, từ lúc đó vấn vương Mẫu Nương, không quên nơi Vô Cực, cho nên giờ phút nào cũng nhớ tới Vô Sanh Lão Mẫu, người nào luôn luôn tận tâm tu Đạo bàn Đạo, mới thật sự hiểu được ý nghĩa sâu xa của "Xuất Cáo Phản Diện". 

    12. Bất Loạn Hệ Thống
    Bất loạn là không thể rối loạn; hệ là sợi dây nối tiếp, cũng là đại biểu một dây Kim Tuyến; thống là thống lãnh vạn vật, là Đại Đạo chánh tông, cũng là mỗi người trên mình vốn có tự tánh. Cho nên, cái gọi là "Bất Loạn Hệ Thống", thật sự hàm ý chỉ mỗi một con người tu Đạo, không thể đi lệch và xa rời chánh Đạo, tất cả mọi việc đều lấy tự tánh lám chủ, không thể đi lầm vào tả Đạo bàng môn, đó mới thật sự là không loạn hệ thống. Nhưng sợi Kim Tuyến có hai dây, một dây thuộc Tiên Thiên, một dây thuộc hậu Thiên, Kim Tuyến của Tiên Thiên là Thiên Mệnh, mọi người tự nhiên vốn có Thiên tâm tự tánh, có thể lấy tâm ứng tâm, mà tương thông với Trời, đó là Phật tâm. Cái tâm này, tại Thánh không tăng, tại phàm không giảm, lúc tâm con người thanh tịnh vô niệm, vô tư vô ngã, cái tâm lúc đó sẽ tự nhiên nối liền với Trời, Linh Tánh sẽ thông với Tiên Thiên, không rời một bước tức thì đạt tới Lý Thiên. Trong lúc này, sợi Kim Tuyến Tiên Thiên của các vị tự nhiên phát quang rực rỡ, những linh quang này chiếu rọi khắp tam thiên đại thiên thế giới, đến cả Kim Tuyến nhân sự của Hậu Thiên, là do các vị nhiều kiếp có Phật duyên với Dẫn Bảo Sư, Điểm Truyền Sư và Tiền Nhân, mà vào Tam Kỳ mạt kiếp đại khai phổ độ này, nhân duyên lại được hội tụ, lại được gặp nhau, mới có cái nhân duyên tốt để cùng tu Đạo bàn Đạo.
    Đồ đệ các trò ơi! Vào thời kỳ mạt hậu lần cuối này, Cung Trường giả, Tổ Sư giả, nhộn nhịp bay ra khỏi lồng rồi. Chúng dùng các loại thần thông, hiển hóa để dụ dỗ người tu Đạo, đồng thời lấy cái giả mà làm rối cái chơn, lấy cái tà làm rối cái chánh, thậm chí còn tự xưng là có Thiên Mệnh, mắt cá lộn với hạt châu, chơn giả lẫn lộn, để quấy nhiễu Đạo trường. Này các đồ đệ, vào thế cục loạn động này, về Đạo thì hỗn loạn, lòng người thì hiểm ác trong những năm này, nếu
    các trò không thể nắm vững theo một đường Kim Tuyến, bước chân ổn định theo gót Tiền Nhân, đồng thời bên trong phải tu tâm tánh, an thân lập mạng, nếu như có đại khảo nghiệm, đại nạn tới gần, thì các trò làm sao lòng được kiên định mà để tránh kiếp khỏi nạn đây? Cho nên nói: Các trò tu tới lúc tâm tánh đoan chánh, tà ma không thể xâm nhập vào, thì mới thật sự là "bất loạn hệ thống" đấy! Còn không, tâm tánh bất chánh, tà ma xâm nhập, sẽ dễ dàng tin theo tả Đạo bàng môn, thì đối với Tiền Hiền, Dẫn Bảo Sư càng không được tôn kính, cho nên một khi đường Kim Tuyến bị đứt đoạn, thì tánh mạng cũng khó bảo toàn. 

    13. Ái Tích Công Vật
    Công vật là đồ vật của tập thể, ví như đồ vật của Phật đường hay Phật gia đều là đồ vật của tập thể, trò có giữ gìn và quý trọng nó không? Đồng thời phải sử dụng cho tốt, có thể phát huy tác dụng giá trị của nó, như vậy mới là quý trọng của công. Hay là các vị có thể mang nó về nhà làm đồ riêng tư của mình được không? Này đồ đệ, trước đã có nói tới điều Phật quy "Thủ tục tất thanh", các trò cần phải biết "Tiểu tham bất phòng, đại quá tất thành*!" Cho nên đồ vật của công tuyệt đối không thể xem là của riêng hoặc tùy ý đi phá hoại nó.
    Ngoài ra, những vị Điểm Truyền Sư, Giảng Sư trong Phật đường thay Trời tuyên hóa, cùng các vị Bàn sự nhân viên, trò có yêu quý và bảo hộ họ không? Có đối với họ bất lễ phép không? Trong lời nói có ngỗ nghịch với họ không? Cần phải biết rằng, nếu như đối với họ có tôn kính lễ phép, là yêu quý bảo vệ của công đó. Tại vì họ thay Trời tuyên hóa, thuộc về người của Trời, nếu như các vị không tôn kính, không yêu quý bảo vệ họ, vậy thì không thể cho là quý trọng của công được, huống chi còn ở sau lưng phê bình họ, chửi mắng họ, nếu như vậy thì càng nghiêm trọng hơn nữa. Cho nên, yêu quý của công không phải chỉ là yêu quý đồ vật trong Phật đường, mà còn phải yêu quý người trong Phật đường, phải thật tốt đối đãi với mọi người, đồng thời còn phải thương yêu lẫn nhau, cùng nhau giúp đỡ, cùng nhau khuyên nhủ, như vậy mới thật sự là yêu quý của công đấy! Đồ đệ ơi! Đạo lý này các trò tự mình suy nghĩ xem, nếu như yêu quý đồ vật trong Phật đường, tôn kính người trong Phật đường, đó là yêu quý đồ vật của Bề Trên, yêu quý người của Tiên Phật, thì cũng giống như yêu quý Tiên Phật Bồ Tát Bề Trên một thứ. Ngoài ra, người có thể ở bên cạnh mình, mình cũng phải yêu quý họ, nếu không quý trọng họ, Bề Trên tự nhiên cũng không xoay chuyển nhân tài đến với mình, như vậy Đạo vụ làm sao mở rộng được, và bàn Đạo cho tốt được đây? Cho nên người đi trước phải yêu quý người bên cạnh mình, phải lo cho họ lúc ăn thì phải ăn, lúc nghỉ ngơi thì phải nghỉ ngơi, lúc phải điều dưỡng thì nên điều dưỡng, cần phải biết cái thể xác này mới có thể hành công, không có thể xác này thì làm sao hành công liễu nguyện đây? Cho nên, nếu là Tiền Hiền thì phải yêu quý Hậu Học, không nên tùy tiện trách phạt họ, tại vì họ là của công, của nhà Phật, không phải là chị em trong Đạo. Cho nên không yêu quý người bên cạnh mình, cũng là không yêu quý của công. Điều Phật quy này, các vị có thể đi sâu tỉ mỉ mà lãnh ngộ hơn!

    14. Hoạt Bát Ứng Sự
    Phật quy thật sự là Đạo, vì nó sống động, không có cố định, vốn tùy theo nhân duyên bên ngoài mà thay đổi nhưng vẫn giữ trung Đạo, sống mãi không ngừng, cho nên người tu Đạo phải có tâm hoạt bát linh động, không được bảo thủ cố chấp mà nhất thành bất biến. Thí dụ, có một số việc phải làm, nhưng Tiền Hiền đi vắng, trước đó không thể bẩm báo và quyết định, mà sự việc đã đến, đồng thời việc rất hệ trọng, không thể chần chờ được, phải lập tức giải quyết, lúc đó các trò cũng phải học biết đối diện và đảm đương sự việc đó, kịp thời xử lý, nếu không, ắt hại người lỡ việc, cũng là có tội lỗi.
    Này đồ đệ, các trò nhất thiết phải ghi nhớ, việc làm và hành vi của mình, chỉ cần đối trên thì hợp với Thiên tâm, đối dưới thì có lợi ích cho chúng sanh, cũng là tất cả sự việc có ích cho chúng sinh, trò đã làm dù không được Tiền Hiền tha thứ, thậm chí còn bị quở trách, trò vẫn có thể cân nhắc mà đi làm; tại vì chúng ta làm việc là việc của Bề Trên, là thay thế Bề Trên làm việc, chứ không phải làm việc cho người nào, mà là làm việc siêu sanh liễu tử đại sự của chúng sinh, không phải làm việc nhỏ của nhân gian, cho nên sự việc đến không thể chần chờ để lỡ việc, chỉ là mình có tấm lòng Bề Trên, lòng công bằng, thì dù Tiền Hiền đi vắng, mình cũng có thể đi đảm đương, chỉ cần chúng ta có tấm lòng khí độ, là đối với Bề Trên không phải đối với người, Bề Trên sẽ tự nhiên tha thứ bỏ qua. Huống chi pháp là vô định pháp, chúng sinh có tám vạn bốn ngàn loại tâm, thì các trò cũng phải có tám vạn bốn ngàn cái pháp, phải học được dù bất cứ chỗ nào lúc nào, "vật đến thì ứng, vật đi thì tịnh", nắm giữ tự tánh chân ngã, đối diện ứng phó với tất cả nhân duyên, đồng thời vào lúc này, các trò phải học được "Ứng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", như vậy mới có thể là "Hoạt Bát Ứng Sự", mới gọi là có cái trí tuệ tối cao. Này các đồ đệ, tâm của Phật là vô trụ, không bị nhiễm vật, còn tâm chúng sinh là vô thường, không thể vĩnh viễn không thay đổi. Cho nên phải dùng mọi thứ pháp để độ mọi thứ tâm, để cho mỗi một chúng sinh đều được trở về Vô Cực Lý Thiên, như vậy là các trò phải có trí tuệ, để mà suy nghĩ vấn đề này.  

    15. Cẩn Ngôn Thận Hành
    Cổ nhân nói: "Ngôn giả tăng chi âm, hành giả tâm chi ảnh", là lời nói có thể biểu đạt ra nội tâm từ đáy lòng của một con người, mà hành vi có thể phản ánh tâm tư của con người đó. Cho nên, trong lòng các trò nếu có tâm tư gì, thì bên ngoài sẽ có những lời nói và hành động như thế. Ngược lại, nếu như trong lòng không có tâm tư, thì tự nhiên cũng sẽ không có lời nói và hành động biểu lộ. Vì thế, những lời nói và hành vi có thể phản ánh tự nhiên cái tâm tánh. Cho nên mỗi lời nói, mỗi hành vi của trò, cũng là đại biểu hiện tại con người thật sự của trò đấy! Mà Đạo không thể rời thân dù trong giây lát, hơn nữa Trời không ngôn, đất không ngữ, sự tôn quý của Đạo là phải ở trên người các vị được biểu hiện ra. Như vậy, các vị làm sao có thể không cẩn thận về lời nói và hành vi của mình, lại có thể không tôn kính Tiên Phật trong bản thân mình sao? Huống chi Thiên có Thiên luật, Quốc có Quốc pháp, Phật đường cũng có Phật quy cần giữ, nếu như không cẩn thận về lời nói và việc làm, mà tùy ý tạo ra khẩu nghiệp, tạo ra tội lỗi, chẳng những làm tổn hại người khác mà rốt cuộc người bị hại lại chính là mình. Tại vì Bề Trên đối với mỗi một chúng sinh đều rất công bằng, đều là đại công vô tư, đều là "Thốn công bất muội, tim quá tất sát*". Như vậy, trong cái thiết luật nhân quả báo ứng đó, đồ đệ các trò chẳng lẽ phạm vào tội lỗi mà không bị sự trừng phạt của Thiên luật hay sao? Cho nên, lời nói không được làm tổn thương người, hay làm bại đức, càng không thể dùng lời nói mà làm hư việc! Trò nên dùng lời nói ích lợi cho người, lời nói để thêm đức, và dùng lời nói để sự việc được thành! Nhất là người tu Đạo, khi nói ra càng nên nói những lời Chân lý, chỉ nói việc Thánh không nói thị phi, bất tạo khẩu nghiệp, khẩu vô tạp ngôn, bỏ đi những cái cười vô ích, như vậy mới thật sự là cẩn ngôn; mà thận hành thì cũng một thứ. Trò không phải chỉ có ngôn hành hợp nhất, mà thân còn phải là một gương mẫu, trò còn phải lấy cái thân này để biều lộ ra cái Đạo, thay trời tuyên hóa, nơi nào cũng lấy Thiên tâm làm tâm, việc nào cũng lấy chúng sinh làm đầu, thời thời phải rụt rè thận trọng (chiến chiến cạnh cạnh), tự mình giữ gìn cẩn thận, tâm giữ cho nghiêm cẩn, thân ít phạm lỗi, như vậy có nói đến đầy trời cũng không tạo khẩu nghiệp, đi khắp thiên hạ cũng không có người oán ghét, mới đúng là một người thay trời tuyên hóa, lập thân hành Đạo đấy!
    Những điều trên đây, là Thấy đã đem cái chơn nghĩa của 15 điều Phật quy sơ lược nói qua, hy vọng đồ đệ các trò đều có thể thật tốt mà tu, thật tốt mà bàn, đồng thời tuân theo đi làm, thì Thầy đây bảo chứng cho các trò nhất định thành Đạo có dư đấy! Các trò nhất thiết phải ghi nhớ, những điều Phật quy này là do Bề Trên định ra, các trò quyết không được định ra Phật quy , nhất là vào kỳ cuối của thời mạt hậu này, nếu như các trò muốn bàn việc của Bề Trên, thì các trò phải y theo hệ thống này, cùng với 15 điều Phật quy này mà đi làm, là mọi sự mọi việc đều bàn rất thuận ý, được hợp với Thiên ý. Đến cả một số nghi lễ sinh hoạt hàng ngày, những cái lễ rất nhỏ như ra vào ở trong Phật đường, đồ đệ có thể tự mình cân nhắc xem tình hình thực tế mà làm. Nhưng với 15 điều Phật quy này, vốn là cái lễ tiết để thành Phật, các trò chỉ cần lãnh hội được, và chăm chỉ nỗ lực đi làm, thì sẽ hiểu rõ đó là tiêu chuẩn phép tắc của Tu Đạo, sự điều lý của bàn Đạo. Này các đồ đệ, các trò nói, Phật quy trọng yếu như vậy, thì các trò làm sao không ghi lòng tạc dạ, thành tâm bảo thủ (quyền quyền phục ưng), mà nhận lý thật tu ư! Sau cùng, các trò phải ghi nhớ, Thái Thượng Cảm Ứng Thiên có nói: "Họa Phước vô môn, duy nhân tự triệu, thiện ác chi báo như ảnh tùy hình*". Này đồ đệ, tất cả những việc làm của các trò cuối cùng là phước hay là họa, đều toàn là do ở nơi các trò, mà Bề Trên không lúc nào không minh giám, không chút nào không ghi lại! Cũng như trong lúc này các trò tồn một ý niệm thiện, thì Bề Trên sẽ xoay chuyển cái tốt đến với các trò, nếu sanh một ý niệm ác, Bề Trên cũng sẽ tự nhiên trừng phạt, tuy mắt phàm của các trò không trông thấy, báo ứng cũng chưa phải đến liền, nhưng luật Trời vô tư, thiện và ác tất nhiên có sự báo ứng! Hiện giờ là Thiên thời khẩn cấp màn chót, Thiên khảo nhân nghiệm, là giây phút thiện ác phân chia, đồ đệ các trò có thể nào mọi sự mọi việc lại không cân nhắc cẩn thận, để giữ mình cho tốt, mới có thể tu đến sau cùng một giây một phút vẫn giữ được cái tâm không thay đổi!
    Trong giờ phút Thầy sắp sửa ra đi, Thầy không có gì tặng cho các đồ đệ yêu quý của Thầy, Thầy chỉ lặng lẽ chúc phúc cho các trò, mỗi một người đều có thể "Bảo trì sơ trung, báo ân liễu nguyện" (giữ vững cái nguyện lúc ban đầu) mà trở về Vô Cực! Được không ? Tạm biệt! Đồ đệ các trò!